Thứ Ba, 18 tháng 6, 2013

ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN CỦA VĂN PHÒNG II VIỆN HOÁ ĐẠO, GHPGVNTNHN-HK THÀNH CÔNG VIÊN MÃN



Gần 300 chư Tôn đức Giáo phẩm thuộc nhiều tự viện gồm: Thailand, Miến Điện, Tích Lan, Cam Bốt, Đại Hàn, Lào, Hoa Kỳ, Đài Loan, Việt Nam v.v… và nhiều ngàn đồng bào, Phật tử cũng như đông đảo đại diện các đoàn thể, tổ chức, cộng đồng, chính đảng, các cơ quan truyền thong v.v… đã tham dự Đại lễ Phật đản PL: 2557 do Văn Phòng II Viện Hoá Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ tổ chức tại chùa Điều Ngự - Trụ sở Trung ương của Giáo Hội. Ngoài nhiều ngàn người tham dự tại Chùa còn có hàng chục nghìn người khác theo dõi trực tiếp trên đài Truyền hình IBC 56.5 do chùa Điều Ngự thành lập và sau đó được phát hình trên 3 đài Truyền hình khác.

Đại lễ Phật Đản của VPIIVHĐ và GHPGVNTNHN-HK năm nay được long trọng tổ chức trong hai ngày. Ngày 25 tháng 5 năm 2013, hai cuộc Hội thảo về Vai Trò Hoằng Pháp Trong Giai Đoạn Mới và Kinh Tế Tài Chánh Qua Cái Nhìn Của Phật Giáo do Tổng Vụ Hoằng Pháp và Tổng Vụ Tài Chánh tổ chức với sự diễn thuyết của nhiều diễn giả xuất sắc trước cử toạ thuộc nhiều thành phần trong xã hội. Hai cuộc Hội Thảo đã tạo một dấu ấn hy hữu trong lòng của mọi giới quần chúng. Lúc 7 giờ chiều cùng ngày, Lễ truyền trao Bồ Tát giới đã được khai diễn tại Chánh điện.


Chủ nhật, ngày 26 tháng 5 năm 2013, đúng 9 giờ sáng, một phái đoàn được dẫn đầu bởi đoàn Mô tô, xe không mui có 3 Đại kỳ, ba chiếc xe Jeep nhà binh do các cựu quân nhân Phật tử đại diện cho 3 quân chủng, xe kiệu có hình của Đức Tăng Đệ Tam, Đệ Tứ và Đệ Ngũ Tăng thống và nhiều chục chiếc xe khác chở chư Tôn đức Giáo phẩm và quý Cư sỹ Phật tử đến thăm viếng và cầu nguyện tại 3 tượng đài Chiến sỹ Việt Mỹ, tượng đài Anh Hùng và tượng đài Thuyền nhân Việt Nam. Đúng 11 giờ trưa là thời Thuyết pháp, 12 giờ Lễ Trai tăng, 1 giờ là Pháp hội: Đức Phật Và Nền Hoà Bình Thế Giới. Khai mở Pháp hội là vũ điệu dâng hoa của đoàn thiếu niên Phật tử Tích Lan, GĐPT Điều Ngự hát bài Trầm Hương Đốt và 3 Ban Đạo ca của 3 Đạo Tràng Điều Ngự, Diệu Pháp và Pháp Vân dâng hoa đăng cúng dường Đức Phật. Pháp Hội đã được quý vị Tổng vụ trưởng của Giáo hội trình bày về cái nhìn của mình qua các truyền thống tu tập như cái nhìn của Phật giáo Đại thừa, cái nhìn của Phật giáo Nguyên thuỷ và cái nhìn của những người Phật tử Tây phương về Đức Phật và nền hoà bình thế giới. Đúng 1:45 chiều gần 300 chư Tôn đức Giáo phẩm thuộc nhiều quốc gia đã làm Lễ Mộc dục, thả bong bóng cầu nguyện Quốc thái dân an, Thế giới hoà bình và đúng 2 giờ chiều, Nghi thức Khánh đản đã được trang nghiêm cử hành bằng 5 thứ tiếng.

Mở đầu Nghi thức Khánh Đản là lễ chào Quốc kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam, Phật Giáo kỳ và phút nhập Từ bi quán. Sau phần giới thiệu quý quan khách, Hoà thượng Thích Viên Lý, Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo kiêm Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHN-HK đã đọc Diễn văn Khai mạc, tiếp theo đó, Đại lão Hoà thượng Thích Chánh Lạc, Phó Viện trưởng Viện Hoá Đạo kiêm Chủ tịch VPIIVHĐ đã cung tuyên Thông Điệp Phật Đản của Đức Đệ Ngũ Tăng thống GHPGVNTN, Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ. Sau phần nghi lễ vô cùng uy nghi, linh thiêng và trang trọng, các vị Dân cử đã nói lên cảm nghĩ của mình về ngày Phật đản. Thị trưởng thành phố Westminster Tri Ta, Nghị viên Dians Carey, Nghị viên Sergio Contreras, Chánh án Nguyễn Trọng Nho, Dân biểu Tiểu bang Alan Mansoor, Phó thị trưởng thành Phố Fountain Valley: Micheal Vo, Nghị viên thành phố Garden Grove Christy Phan, đại diện Dân biểu Liên bang Loretta Sanchez, Luật sư Lê Công Tâm, Dược sỹ Nguyễn Đình Thức đại diện Giám sát viên Jennet Nguyễn, Nữ sỹ Bích Huyền đại diện Thượng Nghị sỹ Lou Correa đã phát biểu và trao bằng tưởng lục cho Giáo Hội. Ông Rusty Kennedy, Giám đốc Điều hành Cơ quan Giao tế Quận Cam; Cựu Nghị viên, Giám đốc Sở vệ Sinh Midway City Tyler Diệp; Cảnh sát trưởng Thành phố Westminster Kevin Baker cũng đã nói lên cảm niệm của mình về ngày Đản sanh của Đức Phật.

Pháp sư Niên trưởng Thích Giác Đức, Phó Chủ tịch VPIIVHĐ đã trao bằng tưởng lệ cho Thị trưởng Thành phố Westminster và hai Nghị viên của Thành phố Garden Grove và Santa Ana vì 3 thành phố này đã ra Nghị quyết cấm sự xâm nhập của Cọng sản vào ba thành phố nhằm nói lên sự biết ơn của VPIIVHĐ và GHPGVNTNHN-HK đối với việc 3 thành phố này đã đồng hành với dân tộc trong giai đoạn dân tộc Việt Nam đang chịu nhiều khổ nạn.

Dù bận việc không đến dự lễ được, nhưng Nghị sỹ Liên bang Dianne Feinstein và Nghị viên thành phố Long Beach Gary DeLong cũng đã gởi thư và bằng Tưởng lục để tuyên xưng công hạnh giáo hoá độ sanh của Đức Phật đồng thời chia sẻ niềm vui lớn nhân ngày Phật đản với Giáo Hội.

Sau phần cảm tạ của đại diện VPIIVHĐ, GHPGVNTNHN-HK, Liên Đoàn Cựu Huynh trưởng Hải ngoại tại Hoa Kỳ đã ra mắt thành phần nhân sự mới và Ban Tổ chức đã trao 4 giải thưởng cho 4 tác giả của những bài viết về Ý Nghĩa Phật Đản.

Cuối cùng, một chương trình văn nghệ hết sức đặc sắc do các Ca sỹ tài danh trong đó có 2 đoàn vũ Thailand và nhiều nghệ sỹ khác thực hiện để cúng dường ngày thị hiện Đản sanh của bậc Đại Giác.

Năm nay, số người tham dự Đại lễ Phật Đản tại Chùa Điều Ngự rất đông so với những năm trước đó. Chương trình Đại lễ năm nay rất sâu lắng, mang nhiều ý nghĩa đặc hữu, khả dĩ nói nên được tấm lòng thành kính và hân hoan của những người con Phật trước sự thị hiện Đản sanh của đấng từ phụ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.

Có thể nói, Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2557 do Văn phòng II Viện Hoá Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ tổ chức đã thành công viên mãn, sự thành công này là kết tinh của những tấm lòng thiết tha vì đạo của không chỉ Tăng ni, Phật tử Việt Nam, mà còn bao gồm đạo tâm cao quý của rất nhiều sắc tộc Phật tử khác. Điều đáng ghi nhớ ở đây đó là tinh thần sáng tạo đầy kinh nghiệm và sự tận tâm làm việc không mệt mỏi của toàn thể Phật tử địa phương và của Ban Tổ Chức.

Dù Đại lễ đã kết thúc, nhưng dư âm của Đại lễ vẫn còn vang vọng đó đây, nhất là Đại lễ đã để lại trong lòng của những người con Phật một ấn tượng đầy tình người và tình đạo.

Phóng viên của Đài truyền hình IBC


DIỄN VĂN KHAI MẠC ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL 2557 - 2013

của Hoà thượng Thích Viên Lý, Trưởng ban Tổ Chức Đại lễ.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,

Kính bạch Đại lão Hoà thượng Chủ tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo,

Kính bạch chư Tôn đức Giáo phẩm Tăng ni,

Kính thưa quý vị Dân cử, quý vị đại diện các đoàn thể, tổ chức, cộng đồng, quý cơ quan truyền thông và quý thiện hữu tri thức Phật tử,

Phật Đản là ngày lễ thiêng liêng trọng đại nhất của toàn thể Phật giáo đồ trên khắp năm châu, là ngày mà chúng ta chiêm nghiệm những phẩm tính đạo đức siêu việt về cuộc đời của Đức Phật và những cống hiến to lớn của đạo Phật cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử trên 2500 năm qua.

Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến là nhân duyên lớn duy nhất khiến Đức Phật thị hiện đản sanh.

Trên nền tảng của đại bi tâm và tuệ giác siêu việt, giáo pháp do đức Phật khai thị đã không chỉ giải thoát con người ra khỏi vô minh phiền não mà còn góp phần bảo vệ sinh thái và dẫn trước thời đại hàng nhiều thế kỷ trong mọi lĩnh vực.

Đức Phật là hiện thân của Từ bi và Trí tuệ, là biểu tượng của hoà bình, tự do và dân chủ. Giáo pháp của Ngài là một tổng họp tuyệt diệu cho tính khế cơ, khế thời và khế lý. Đức Phật đã khước từ mọi quyền lực, danh vọng, tài vật thế gian để kiến tạo một vương quốc chánh pháp, được xây dựng bằng tình thương, bao dung, hài hoà và trí tuệ. Chánh pháp là di sản tâm linh vô giá đã, đang và sẽ soi sáng, dẫn dắt nhân loại đến nơi an lạc, hạnh phúc miên viễn. Vương quốc chánh pháp sẽ mãi mãi hưng thịnh cho đến khi nào người con Phật còn biết trân quý và tinh tấn hành trì những chân lý vi diệu tối thượng.

Mỗi mùa Phật đản về là mỗi lần tâm tư người con Phật được thắp sáng. Trong ánh sáng của tuệ giác siêu việt, người Phật tử ý thức rõ sứ mệnh cứu khổ độ sanh của mình và trách nhiệm cần có đối với dân tộc và thế giới nhân loại.

Chiến tranh, nghèo đói, bạo lực, độc tài, ý thức hệ, phân biệt chủng tộc, tệ nạn xã hội, hố ngăn cách giữa giàu và nghèo v.v… là sản phẩm của tham dục vốn là nhân tố chủ yếu đã tước đi hạnh phúc và phẩm giá cao quý của con người.

Ngày Phật Đản là ngày để chúng ta phát tâm sống đời sống Phật, một đời sống thanh tịnh, thánh thiện, vì thế, ý nghĩa đích thực của sự tưởng niệm về ngày Đản sanh của Đức Phật chính là nỗ lực làm sống dậy tâm từ bi hỷ xả do Đức Phật thuyết giáo để thế giới nhân loại chung sống hoà bình, quê hương Việt nam sớm có được tự do, nhân quyền và dân chủ.



Với tất cả lòng tri ân và tôn kính, thay mặt Ban Tổ Chức, chúng tôi long trọng tuyên bố khai mạc Đại lễ Phật Đản Phật lịch 2557.

Xin trân trọng cảm ơn và kính chào chư liệt vị.







Thứ Hai, 17 tháng 6, 2013

Đại Lễ Phật Đản 2013



Ngọn Đuốc Phá trừ vô minh của Bồ tát Thích Quảng Đức

NĂM MƯƠI NĂM PHÁP NẠN LỊCH SỬ 1963 :


Ngọn Đuốc Phá trừ vô minh của Bồ tát Thích Quảng Đức

Võ Văn Ái

Xưa nay một số người đánh giá sai lầm nếu không là xuyên tạc cuộc vận động của Phật giáo năm 1963 cho bình đẳng tôn giáo và công bình xã hội, là vì họ đứng từ quan điểm đối nghịch Phật giáo trên phạm vi chính trị, tín ngưỡng hay chủ quan. Nhưng họ không nhìn yếu tố Phật giáo trong toàn bộ lịch sử của một chế độ quốc gia đầu tiên, thoát ách Pháp thuộc và ly khai chủ nghĩa công sản quốc tế, trên đà tự diệt, vì bỏ rơi quần chúng Miền Nam vào tay Cộng sản ngoại lai.

Không tiếng nói thiết tha nào hơn, gióng lên tiếng trống báo hiệu, vừa sáng suốt vừa tiên liệu, vừa đủ quyền uy từ một trong những công thần của chế độ Nhà Ngô : ông Nguyễn Thái.

Ông Nguyễn Thái, cựu Chủ tịch Hội Sinh Viên Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, được ông Diệm mời về nước sau Hiệp định Genève 1954, và cử làm Tổng giám đốc Việt Nam Thông Tấn Xã suốt sáu năm, 1955-1961. Do tuyệt vọng trước chế độ độc tài gia đình trị của Tổng thống Diệm, ông bỏ nước qua Phi Luật Tân, ngồi viết tác phẩm “Is South Vietnam Viable ?” - Nam Việt Nam có thể tồn tại [trước cuộc xâm lăng Cộng sản chăng ?]. Sách phát hành tại Manila năm 1962 để cảnh báo chế độ.



Trong lời tựa sách viết từ Cambridge tháng 11 năm 1962, ông Nguyễn Thái nhận định :



“Đặt hết trọng tâm vào việc tiêu diệt hết những người quốc gia đối lập, chế độ cố gắng thay sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam bằng sự trợ giúp của người Mỹ. Ngô Đình Diệm cố tạo cho mình hình ảnh của một lãnh tụ chống Cộng “bất khả thay thế”, và ngày nào mà người Mỹ còn tin rằng ông Diệm là “bất khả thay thế” thì ngày đó ông Diệm không cần sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam, vì ông ta có thể dựa vào sự ủng hộ vô điều kiện và vô giới hạn của người Mỹ.



“Bất hạnh thay, chế độ Ngô Đình Diệm, như ta thấy, đã không đáp ứng được cả điều mong ước tối thiểu này. Hình như tất cả những gì chế độ này chỉ có thể làm được là phung phí hết những trợ giúp rộng rãi nhất mà Việt Nam đã được hưởng và bằng mọi giá nắm giữ độc quyền quyền lực của gia đình nhà Ngô tại miền Nam Việt Nam.



“Miền Nam Việt Nam do chế độ Ngô Đình Diệm quản trị sẽ không chống lại lâu dài được mối đe dọa do Cộng Sản khuynh đảo thì lời tôi chỉ trích chế độ này đã không phải là điều vô ích.



“Nếu quý vị tự hỏi làm thế nào mà chế độ Ngô Đình Diệm đã có thể tồn tại dài lâu như thế thì tôi xin trả lời rằng sở dĩ Diệm còn tồn tại được thứ nhất là vì những cố gắng hỗ trợ tận tình của người Mỹ, thứ hai là vì người Việt thù ghét vô cùng nền độc tài Cộng Sản.



“Do đó mà tại miền Nam Việt Nam ngày nay, với một quân đội tinh nhuệ và được trang bị đầy đủ, và một bộ máy hành chánh tương đối to lớn, chế độ vẫn không chống nổi sự khuynh đảo chính trị của Cộng Sản, vì những người lãnh đạo của chế độ đã vẫn liên tục không chịu chặt tận gốc rễ những nguyên nhân của tham nhũng và sự vô hiệu. Trái lại, giới lãnh đạo này đã nỗ lực tối đa để giấu diếm sự thật về tình hình miền Nam Việt Nam, xuyên tạc sự thật đến độ ngay cả người Mỹ cũng tin rằng không có một giải pháp chính trị nào khác ngoài tình trạng hiện hữu”.



“Vì từng làm việc mật thiết với chế độ này trong suốt 7 năm, nên tôi đã có thể thấy được rằng chế độ này không có khả năng thu phục được sự ủng hộ của nhân dân”.



Sự biến tại Đài Phát thanh Huế ngày Phật Đản 8.5.1963 là giọt nước làm tràn ly của cuộc khủng hoảng xã hội, chính trị và tôn giáo kéo dài nhiều năm dưới thời Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa.





Ba báo động tuyệt vọng trước nền chính trị tự diệt của Miền Nam



Trước sự biến Phật Đản Huế năm 1963, ba sự kiện biểu trưng và báo động cho cuộc khủng hoảng chính trị không lối thoát của chế độ Nhà Ngô : ngày 11.11.1960, cuộc đảo chính hụt của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông ; sáng ngày 27.2.1962, Trung úy Phạm Phú Quốc và Chuẩn úy Nguyễn Văn Cử ném bom xuống dinh Độc lập gây hư hại nặng nề nhưng không gây thương tích cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và gia đình ông cư ngụ tại đây. Đó là hai sự biến trong giới quân nhân.



Sự kiện thứ ba đến từ tôn giáo và là Phật giáo : ngày 22.2.1962, một hồ sơ gửi lên Tổng thống Ngô Dình Diệm và ông Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, do Hòa thượng Thích Giác Nhiên, Hội trưởng Hội Phật giáo Việt Nam tại Trung phần, và Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Pháp chủ Giáo hội Tăng già Trung phần ký tên.



Hồ sơ này cung cấp những tư liệu minh xác các cuộc đàn áp Phật giáo, thảm sát, khủng bố, bắt giam tù hay bắt cải đạo Thiên chúa tại các tỉnh miền Trung, đặc biệt ở Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi. Hồ sơ nói lên một sự trạng kéo dài từ 1958 đến 1961, thời gian có hàng vạn Phật tử bị giam cầm, đày đọa, hàng trăm bị thủ tiêu, và khoảng 2000 bị bắt buộc phải bỏ đạo Phật để cải đạo Thiên chúa giáo tại miền Trung và các khu dinh điền.

Sự biến Đài Phát thanh Huế ngày 8.5.1963 : Giọt nước làm tràn ly

Hai ngày trước Rằm tháng Tư năm Quý Mão, dương lịch 8.5.1963, là lễ Phật Đản, bức công điện số 5159 từ Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống gửi Tỉnh trưởng Thừa Thiên chỉ thị cho các tôn giáo chỉ được treo cờ quốc gia trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, nhà chùa, v.v…) mà thôi.

Dịch ra ngôn ngữ trái tim Phật tử Huế, là triệt hạ cờ Phật giáo trong ngày Phật Đản. Lệnh trái ngược với truyền thống Huế từ bao nhiêu năm ròng, quần chúng Phật tử treo đèn, kết hoa, thượng cờ Phật giáo để mừng ngày Đản sinh Đức Phật Thích Ca.


Tổng trị sự Giáo hội Tăng già Trung phần và Tổng trị sự Hội Phật giáo Việt Nam tại Trung phần phản ứng bằng ba bức điện. Bức điện thứ nhất gửi Phật giáo Thế giới yêu cầu can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Bức điện thứ hai gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm thỉnh cầu Tổng thống thu hồi công điện nói trên. Bức thứ ba gửi các tập đoàn Phật giáo Việt Nam thông báo sự trạng và yêu cầu chờ chỉ thị.

Đồng thời một sách lược cho cuộc vận động Phật giáo được đề ra :

- Tính chất : Thuần túy tín ngưỡng ;

- Mục tiêu : Bình đẳng và tự do tín ngưỡng trong phạm vi nhân quyền ;

- Phương pháp : Bất bạo động ;

- Đối tượng : Chỉ phản đối chính sách bất công ; không coi Chính phủ, và nhất là không coi Thiên chúa giáo, là kẻ đối lập.


Như thường lệ mọi năm, Phật tử Huế luôn tổ chức đám rước từ chùa Diệu Đế xuyên qua thành phố Huế lên chùa Từ Đàm là nơi tiến hành Đại lễ Phật Đản. Thường năm chỉ có dòng biểu ngữ “Mừng Phật Đản”. Nhưng năm nay, do công lệnh triệt hạ cờ Phật giáo nên có thêm nhiều biểu ngữ phản đối việc triệt hạ cờ, như “Yêu cầu chính phủ thi hành chính sách tôn giáo bình đẳng”, “Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị triệt hạ”, “Phật giáo nhất trí bảo vệ chánh pháp dù phải hy sinh”. Nhưng đã bị Thượng tọa ThíchThanh Trí tịch thu. Duy anh chị em Gia Đình Phật tử nài xin để lại biểu ngữ “Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị triệt hạ”.


Sau lễ Phật Đản ở chùa Từ Đàm chiều hôm 8.5.1963, do không nghe tường thuật trên Đài Phát thanh Huế như các năm trước, nên đồng bào Phật tử kéo đến Đài Phát thanh Huế tìm hiểu lý do. Người mỗi lúc mỗi đông, khoảng 10.000 người quy tụ lúc 8 giờ tối.


Tỉnh trưởng Thừa Thiến Huế, ông Nguyễn Văn Đẳng, và Phó tỉnh trưởng Đặng Sĩ đến xin ý kiến ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn. Lúc này ông Cẩn đang dự tiệc với Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục và nhiều nhân viên chính phủ, có cả ông Trần Hữu Thế, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Phi Luật Tân được Tổng giám mục Thục triệu về Huế để thay thế Linh mục Cao Văn Luận làm Viện trưởng Viện Đại học Huế, do Linh mục Luận không mấy tán thành việc đàn áp hật giáo.


Ông Cẩn không nói gì, nhưng Tổng giám mục Ngô Đình Thục nhìn vào Thiếu tá Đặng Sĩ nói “Dẹp !” Sự kiện không ai biết này đã được chính ông Đại sứ Trần Hữu Thế tiết lộ.


Những khổ đau, biến loạn xẩy ra sáu tháng sau đó phát xuất từ lệnh của chữ “Dẹp” này. Dưới quyền điều khiển của Thiếu tá Đặng Sĩ trên chiến xa mang tên Ngô Đình Khôi đã nã súng vào đám đông vây quanh Đài Phát thanh Huế vào lúc Thượng tọa Thích Trí Quang cùng ông Nguyễn Văn Đẳng, Tỉnh trưởng và ông Ngô Ganh Giám đốc Đài Phát thanh Huế thương lượng chưa ngã ngũ về việc truyền thanh lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm.

Chín nạn nhân bị chết vỡ sọ hoặc không toàn thây, trừ một em 19 tuổi, tất cả đều từ 15 tuổi trở xuống. Hàng chục người khác bị thương.



Ngày 10.5.1963, bản Tuyên ngôn của Tăng Tín đồ Phật giáo Việt Nam do ngài Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Thích Tịnh Khiết ký với đại diện các tổ chức Phật giáo miền Trung là các Thượng tọa Thích Mật Nguyện, Thích Trí Quang, Thích Mật Hiển, Thích Thiện Siêu. Tuyên ngôn yêu cầu chính phủ thực thi 5 đểm :



“1. Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn Công điện triệt hạ giáo kỳ của Phật giáo ;

“2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên chúa giáo đã được ghi trong Dụ số 10 ;

“3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo ;

“4. Yêu cầu cho Tăng Tín đồ Phật giáo được tự do hành đạo và truyền đạo ;

“5. Yêu cầu Chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội, và kẻ chủ mưu giết hại, phải đền tội đúng mức”.


Bản Tuyên ngôn trên đây đã được gửi đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm kèm theo bản Phụ đính viết ngày 23.5.63.

Đại quan bản Phụ đính giải thích sâu rộng về tinh thần của 5 điểm yêu cầu, và phân tích cặn kẽ những điều ức chế trong Dụ số 10 đối với Phật giáo, chẳng hạn như các điều 1, 7, 10, 12, 18, 19, 25, 26, 27, và 44.

Bản Phụ đính cũng tuyên xưng chủ trương cơ bản cuộc tranh đấu của Phật giáo theo tinh thần Bất Bạo động của Thánh Gandhi. Rõ nhất và cơ bản nhất là :

“Thứ nhất, là đối với Chính phủ, Phật giáo không chủ trương lật đổ.

Thứ hai, là không ai là kẻ thù, nhất là đối với đạo Thiên Chúa. Phật giáo không tranh đấu với tư cách một tôn giáo chống với một tôn giáo, mà chỉ tranh đấu cho lý tưởng Công bình xã hội.

Thứ ba là phương pháp tranh đấu bất bạo động, và từ chối mọi sự lợi dụng không phù hợp với tôn chỉ Phật giáo, nhất là những người Cộng sản cũng như những kẻ mưu toan chức quyền”


Trên đây là diễn biến được trình bày như sự thực đã xẩy ra cho chính nạn nhân là Phật giáo. Sự thật này đã bị chính quyền bóp méo thông qua bộ máy thông tin của chế độ. Bóp méo khi cho rằng tiếng nổ tại đài phát thanh Huế do “vũ khí” của Việt Cộng mà quân lực Việt Nam Cộng hòa không thủ đắc. Về sau còn đưa ra phụ giải khác là CIA gây nổ !

Tuy nhiên, qua ngày 12.5.63, Linh mục Lê Quang Ánh viết Huyết Lệ Thư với một tập thể tín đồ Thiên Chúa giáo ký tên chung gửi Ngài Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Thích Tịnh Khiết, “lên án tội bất công đã giết hại đồng bào vô tội” và “Tán đồng quan điểm đấu tranh cho tín ngưỡng tự do” của Phật giáo. Linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện Đại học Huế, cũng bất đồng quan điểm của chính quyền khi giải thích sự biến Đài Phát thanh Huế đến từ chủ trương triệt hạ cờ Phật giáo.

Thế là ngoài quan điểm tự vệ của Phật giáo trước sức tấn công ồ ạt của chính quyền Nhà Ngô, còn có sự đồng tình của giới thức giả bất phân chính kiến, tôn giáo như đã thấy tại quốc nội trên đây.

Trên trường quốc tế thì Tổng Giám mục Ngô Đình Thục đi làm chứng gian cho chính quyền, nhằm giải độc qua ba cuộc họp báo tại Paris, New York và Roma. Riêng tại Roma, bị Đức Giáo hoàng và tòa thánh Vatican do chống lại chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ Ngô Đình Điệm, nên đã cấm Tổng giám mục Ngô Đình Thục họp báo trong lãnh thổ Vatican và cấm phổ biến bài thuyết trình của ông Thục.

Thế nhưng sự làm chứng gian cho chế độ của ông Tổng giám mục chẳng làm thay đổi công luận quốc tế. Bởi vì tiếng nói của một nhân chứng khác, với đầy đủ hình ảnh thương tâm của các em thiếu nhi chết tại Đài phát thanh Huế, đã gây xúc động lương tâm thế giới cũng như tại LHQ. Đó là nhân chứng sống của Bác sĩ Y khoa người Đức theo đạo Tin Lành, Erich Wulf. Bác sĩ dạy Y khoa tại Đại học Huế và tận mắt thấy những chi xẩy ra trong ngày Phật Đản tại Đài Phát thanh Huế.

Từ Huế cuộc tranh đấu của Phật giáo lan vào Saigon với cuộc lễ Cầu siêu to lớn cho nạn nhân đài Phát thanh Huế ngày 15.5. Cũng ngày 15.5 Phái đoàn Phật giáo yết kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm trình bày các nguyện vọng Phật giáo. Nhưng chẳng đưa tới kết quả gì. Chùa Xá Lợi của Hội Phật học Nam Việt ở Saigon trở thành trung tâm chỉ huy và xuất phát các cuộc đấu tranh cho bình đẳng tôn giáo và công bằng xã hội. Đã có hàng nghìn Tăng Ni biểu tình trước nhà Quốc hội. Đã có hằng trăm người đồng loạt cạo đầu giữa công trường biểu thị cho lòng dân kết nối với cuộc đấu tranh của Phật giáo.

Ngày 25.5 Ủy ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo ra đời đưa cuộc đấu tranh lên toàn quốc. Phía chính quyền cũng thành lập Ủy ban Liên bộ nhằm thương thảo. Nhưng chính quyền vẫn dằn co không chấp nhận các yêu sách ôn hòa của Phật giáo. Mãi đến khi Ngài Quảng Đức tự thiêu gây chấn động lương tri nhân loại, chính quyền mới thực sự muốn thương thảo. Kết quả là Thông cáo chung ra đời ngày 16.6.1963, với chữ ký của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thế nhưng ký xong lại nuốt lời, không thực thi các hứa hẹn, nên Phật giáo lại tiếp tục đấu tranh theo cường độ ánh sáng xóa tan bóng tối…

Ngọn Lửa Từ Bi rạng ngời thế giới


Vào lúc đó một sự kiện hi hữu xẩy ra : Cuộc tự thiêu ngày 11.6.63 của Hòa thượng Thích Quảng Đức tại góc đường Lê Văn Duyệt – Phan Đình Phùng ở Saigon.


HT Thích Quảng Đức sinh năm 1897, thế danh Lâm Văn Tức, sau đổi qua tên Nguyễn Văn Khiết do Hòa thượng Thích Hoằng Thâm họ Nguyễn nhận làm con chính thức.


15 tuổi thọ Sa Di, 20 tuổi thọ Cụ túc giới. Pháp danh Thi Thủy, pháp tự Hành Pháp, hiệu Thích Quảng Đức. Bước chân hóa độ của ngài đã qua hết các tỉnh Nam Trung Bộ và miền Nam. Sau 20 năm hóa độ ngài đã trùng tu 17 ngôi chùa. Thường ở chùa Long Vĩnh nên người ta gọi ngài là Hòa thượng Long Vĩnh. Trong Phong trào Chấn hưng Phật giáo, Hội An Nam Phật học tỉnh Khánh hòa thỉnh ngài làm Chứng minh Đạo sư năm 1932.

Ngài vị pháp thiêu thân năm 66 tuổi.



Chúng ta chứng kiến hai cách chết trên trái đất này : Cây chết đứng, Người chết nằm.


Riêng Bồ Tát không chết đứng, không chết nằm. Bồ tát chết thành Ngọn Lửa bừng cao xua lùa bóng tối, soi sáng cõi lầm than, áp bức và phá trừ vô minh. Cái chết của Bồ Tát biểu hiện sự sống đã hoàn thiện, tác động thành những cuộc sống tự do, kỳ diệu để chúng sinh sống đời từ bi, giác ngộ.


Từ bi là công lý chứ không là những động tác từ thiện mà thôi. Ngày nay, một số trong chúng ta biến từ bi thành ba phải, thụ động.


Trong kinh sách như kinh Pháp hoa có nói tới việc thiêu thân để cúng dường Chánh pháp và Đức Phật. Từ thiêu một ngón tay đến thiêu một cánh tay, hay toàn thân. Trong Đại Việt sử ký Toàn thư cũng từng ghi lại nhiều cuộc tự thiêu của các bậc cao tăng để cúng dường Chánh pháp thời Lý, thời Trần. Ở miền Nam nơi vùng núi Thất sơn những năm đầu thế kỷ XX người ta cũng chứng kiến nhiều cuộc tự thiêu âm thầm trong hóc núi của các ông đạo như một quá trình tu chứng.

Tây phương quan niệm tự thiêu là tự sát. Nhưng nghĩ vậy là không biết gì về văn hóa Ấn Độ hay Đông phương. Tự thiêu tại Ấn Độ và truyền thống Phật giáo, là cách đo đãt sự tu chứng của người Tăng sĩ đã thấu triệt đạo lý, hiểu rõ lý vô thường, coi tấm thân tứ đại là hình hài giả tạm.

Cuộc tự thiêu của Bồ tát Quảng Đức biểu trưng cho pháp môn Vô úy thí, là bố thí hình thọ cho chúng sinh, tức bố thí hình hài và thọ mạng của mình. Trong giáo lý Nguyên Thủy, tự thiêu biểu trưng cho sự giải thoát.

Trường hợp ngài Quảng Đức, ngoài sức tu chứng còn hiển lộ sự soi sáng vào cơn vô minh của chính quyền thời bấy giờ. Trong thư để lại, Ngài Quảng Đức cầu nguyện cho Tổng Thồng Ngô Dình Diệm khi viết rằng “Cầu hồng ơn Phật tổ gia hộ cho Tổng thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận 5 nguyện vọng tổi thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên ngôn”. Không mảy may thù hận với kẻ đàn áp, giết chóc đồng đạo mình.

Thi hào Vũ Hoàng Chương đã làm bài thơ tuyệt tác “Lửa Từ Bi” định vị cho lòng từ bi qua ngọn đuốc tự thiêu rực sáng lòng thương vô tận và tinh thần vô úy của Bồ Tát Quảng Đức.

Ngày Hòa thượng Thích Quảng Đức ngỏ ý tự thiêu trong một buổi họp tại chùa Xá lợi. Thượng tọa Thanh Long nói như đùa rằng : Tự thiêu thường để lại Xá lợi, ngài tính để lại gì ? Hòa thượng Quảng Đức bảo rằng : “Tôi sẽ để lại Trái Tim”. Quả đúng như thế, sau hai lần thiêu nóng tới bốn nghìn độ. Trái tim Ngài không cháy. Đây là nhiệm mầu thứ nhất.

Đêm 20.8.63 quân đội chính quyền tấn công chùa Xá Lợi, lùa bắt tất cả chư Tăng. Nhóm tấn công được lệnh phải tìm cho ra Trái Tim ngài Quảng Đức mà chính quyền thời bấy giờ sợ như một biểu tượng sống làm rung chuyển chế độ. Họ lục sạo khắp nơi, vất tung mọi thứ. Họ chẳng tìm thấy Trái Tim Bồ Tát. Sau này Đại Cư sĩ Mai Thọ Truyền cho biết, chẳng giấu vào đâu cả, Cư sĩ chỉ cất Trái Tim ấy trong hộc tủ đựng hồ sơ. Bạo quyền đã mù mắt không thấy nhân tâm, nên không nhận ra trái tim của nhân dân hiện hữu trong Trái Tim Bồ Tát. Đây là nhiệm mầu thứ hai.

Và hôm nay, nơi ngôi chùa Pháp Luân này, chúng ta Kỷ niệm Năm Mươi Năm Pháp nạn lịch sử 1963 qua Ngọn đuốc phá trừ Vô Minh của Bồ Tát Thích Quảng Đức, trong mầu nhiệm lịch sử, tôi cảm nhận Trái Tim Ngài đã hòa nhập vào trái tim của mỗi chúng ta để cho đạo Phật trường tồn trên quê hương Việt. Phải chăng đây không là mầu nhiệm thứ ba ?



Chùa Pháp Luân, 9.6.2013

Võ Văn Ái