Thứ Năm, 28 tháng 5, 2009

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 27.5.2009

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 27.5.2009
Thượng tọa Thích Viên Định nói về Pháp lý của GHPGVNTN – Vụ trưởng Gia Đình Phật tử vụ, Lê Công Cầu, viết Giác thư khuyên nhủ Trần Thanh


PARIS, ngày 27.5.2009 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế vừa nhận được hai văn kiện trong nước gửi ra để phổ biến. Hai văn kiện liên quan đến sự sách nhiễu, đàn áp của nhà cầm quyền Hà Nội đối với 20 Ban Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) ở các tỉnh Miền Trung và Miền Nam trong Mùa Phật Đản, mà đồng thời cũng là “Tháng 5 Bất Tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” do Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện, GHPGVNTN, công bố hôm 29.3.2009.

Trong cuộc sách nhiễu, đàn áp các Ban Đại diện GHPGVNTN này, Nhà cầm quyền Cộng sản thường rêu rao rằng GHPGVNTN “bất hợp pháp”, vì đã sáp nhập vào “Giáo hội Phật giáo Nhà nước” năm 1981. Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, viết bài “Vấn đề Pháp lý của GHPGVNTN” phản biện luận điểm hồ đồ và phi pháp của Nhà nước Cộng sản.

Nhà cầm quyền Cộng sản tỏ ra vô cùng sợ hãi “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, nên đã viết bài trên báo An Ninh Thế giới của Bộ Công an mạ lỵ cuộc “Biểu tình Tại gia” trong số ra ngày 23.4.2009, và sang ngày 27.4.2009 báo Công an Nhân dân TP Hồ Chí Minh viết bài mạ lỵ ông Võ Văn Ái, Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, kiêm Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế ở Paris, là cơ quan phổ biến Lời Kêu gọi. Những bài chẳng đáng quan tâm. Vì con thú cộng sản bị thương nên thấy cành cây tưởng cánh cung bắn nó, như một phản ứng Pavlov mà người đọc đã chán ngấy thứ ngôn ngữ chợ trời suốt mấy chục năm qua trên khắp mặt báo cộng sản.

Nhưng điều thú vị là trước hàng nghìn chữ ký tự phát của các tổ chức, đảng phái, hội đoàn, tôn giáo ở hải ngoại hưởng ứng và hoan nghênh Lời Kêu gọi của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thì bỗng nhiên trên sa mạc tuyệt vọng phát ra tiếng rên rỉ của một vài bài chống đối của mấy kẻ tự nhận “Chống Cộng liệt mình”, kiểu Trần Thanh, a tòng mạ lỵ Lời Kêu gọi, một đồng một cốt với giọng điệu thất thanh của Bộ Công an ở Hà Nội.

Vì vậy phản ứng của người trong nước, từ Huế, cất lên dưới ngòi bút của Huynh trưởng Lê Công Cầu, Vụ trưởng Gia Đình Phật tử Vụ, Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, qua bài viết “Thư khuyên nhủ Trần Thanh, và ý nghĩa “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân dân sự - Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.

Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin đăng tải dưới đây toàn văn hai văn kiện này :


Vấn đề Pháp lý củaGiáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN)

I. Pháp lý Phật Giáo Thời Độc lập Tự Chủ :

“Phật Giáo truyền vào Việt Nam vào từ đầu thế kỷ I Tây lịch, nhưng mãi đến thế kỷ VIII mới thật sự phát triển, nhịp nhàng với thời kỳ đất nước bước vào thời đại tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc thời đó.

Trong thời gian ấy các nhà truyền giáo Việt Nam đã khéo léo đưa Phật giáo vào lòng dân tộc mỗi lúc mỗi sâu đậm, đến nay chúng ta không tìm đâu ra trong Phật giáo một dấu vết gì gọi là ngoại lai hay phi dân tộc. Đó là thành công lớn lao trong sự nghiệp truyền giáo của Tổ tiên chúng ta. Mặt khác, các nhà truyền giáo lúc bấy giờ cũng đã thành công nhiều trong sự nghiệp xây dựng đất nước, trong tư thế tự chủ hùng cường đối với phương Bắc sau bao thế kỷ bị đô hộ. Các nhân vật Phật giáo có công với đất nước như : Thái sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu thời Đinh (968-980) và thời tiền Lê (980-1009) ; Quốc sư Vạn Hạnh thời Lý Công Uẩn, Quốc sư Khô Đầu thời Lý Nhân Tôn, Quốc sư Minh Không thời Lý Thần Tôn, Quốc sư Viên Thông thời Lý Anh Tôn (1010-1225) ; Quốc sư Phù Vân Trần Thái Tôn v.v…và đã giúp các vua nhà Trần như : Thái Tôn, Nhân Tôn xuất gia đầu Phật sau khi bình định được các giặc giã bên ngoài mỡ rộng bờ cõi, xây dựng nước nhà vững mạnh (1225-1400). Các vị Tổ sư truyền giáo của chúng ta các thời ấy không hề cầu xin các triều đại pháp lý nào cả mà chính các triều đại ấy đã khâm ban tôn phong các Ngài những tước hiệu lớn lao vinh dự hơn cả ngôi vua thì có pháp lý hành chánh thông thường nào hơn thế nữa !” (trích Bản tham luận của GHPGVNTN kỳ VII năm 1977)

II. Pháp lý Phật Giáo thời Pháp thuộc đến chế độ Ngô Đình Diệm (1858- 1963) :

Khi đất nước bước vào thời kỳ suy vi thì Phật giáo cùng chung số phận với dân tộc. Nghĩa là khi giặc Pháp xâm chiếm xứ sở thì nước mất nhà tan và Đạo pháp cũng suy sụp.

Tuy nhiên, vào các thời kỳ 1925- 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu hoạt động thì thực dân Pháp bắt buộc các tổ chức Phật giáo Trung-Nam-Bắc thời đó muốn hoạt động phải chịu sự kiểm soát của chúng bằng những pháp lý cay nghiệt do các tên toàn quyền thuộc địa quyết định. Đó là những pháp lý tạm thời bất đắc dĩ và tủi nhục của một Tôn giáo cổ truyền của dân tộc từ địa vị một Tôn giáo xuống hàng Hiệp hội thông thường, và có lẽ chúng ta không bao giờ muốn có một pháp lý như vậy nữa.

III. Pháp lý của GHPGVNTN từ năm 1964 đến nay :

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời năm 1964. Sau năm 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi, nhưng GHPGVNTN cũng như nhiều Giáo Hội các Tôn giáo khác vẫn tiếp tục hoạt động.

Những sinh hoạt sau đây của GHPGVNTN sau năm 1975 là những minh chứng :

- Ngày 02.11.1975, xảy ra vụ 12 vị Tăng Ni ở Thiền Viện Dược Sư tại Cần Thơ tự thiêu chống đối đàn áp của cộng sản. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Giám Đốc Sở Công An Sài Gòn, đến chùa Ấn Quang yêu cầu Viện Hóa Đạo GHPGVNTN cử người xuống Cần Thơ để cùng với nhà cầm quyền điều tra. Viện Hóa Đạo đã cử Hòa Thượng Thích Quảng Độ, lúc đó là Tổng Thư ký VHD, thay mặt GH, dẫn phái đoàn xuống Cần Thơ điều tra xác nhận việc này. (xem thêm trong sách “Nhận Định về Những Sai Lầm Tai Hại của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với Dân Tộc và Phật giáo” của HT Thích Quảng Độ, NXB Quê Mẹ, Paris 1995).

- Năm 1977, Thủ tướng Phạm văn Đồng đã ký lệnh thư “Không trở ngại” để GHPGVNTN được tổ chức Đại Hội Kỳ VII tại Sài gòn.

- Năm 1980, nhà cầm quyền chấp thuận việc GHPGVNTN mở Đại Giới Đàn Thiện Hòa tại chùa Ấn Quang Sài gòn. V.v…

Tuy vậy, bên trong, Cộng sản vẫn theo đuổi việc thực hiện châm ngôn của Lê Nin : “Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp và khống chế quần chúng”, nên nhà cầm quyền đã tìm mọi cách để cai quản, điều khiển các Tổ chức tôn giáo.

Đối với Phật giáo, nhà cầm quyền Cộng sản có những hoạt động sau đây :

- Năm 1976, thành lập tổ chức “Phật Giáo Yêu Nước” do những vị sư theo cộng sản lãnh đạo, cộng với những vị sư xu thời. Tổ chức này rất nhỏ, ít nhân sự.

- Năm 1980, thành lập Ban Vận Động Thống Nhất Phật Giáo. Trong đó có các thành viên của GHPGVNTN như : HT Thích Trí Thủ, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo làm trưởng ban, và các HT Thích Trí Tịnh, Thích Minh Châu…

- Năm 1981, thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, công cụ của đảng Cộng sản Hà Nội. (xin xem thêm Tài liệu “Thống Nhất Phật Giáo” của ông Đỗ Trung Hiếu)
Các tôn giáo khác, nhà cầm quyền cộng sản cũng có những hoạt động tương tự, nhưng mỗi tôn giáo có hoàn cảnh, hệ thống tổ chức khác nhau nên kết quả cũng khác nhau.

Việc Cộng sản thành lập những tổ chức làm công cụ cho họ để tuyên truyền là đương nhiên. Nhưng lắc léo ở chỗ, họ dùng một số người của mình, của Giáo Hội mình, GHPGVNTN, thi hành những việc theo ý muốn của họ, đó mới là vấn đề.

Năm 1981, Sau khi thành lập xong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN), thuộc MTTQ, nhà cầm quyền cộng sản tuyên truyền rằng GHPGVNTN không còn nữa, vì đã sáp nhập vào GHPGVN của MTTQ rồi.

Lý do nào Cộng sản nói như vậy ?

Cộng sản lấy cớ việc Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban vận động Thống Nhất Phật Giáo,.tuy Ngài tuyên bố rằng, Ngài nhận lãnh chức vụ Trưởng Ban vận động là với tư cách cá nhân, vì không được sự đồng ý của Giáo Hội. Ngoài HT Trí Thủ, GHPGVNTN còn có HT Thích Minh Châu, Thích Trí Tịnh ... làm Phó Ban hoặc thành viên trong Ban vận động này. Đặc biệt nhất là có một phái đoàn Đại diện cho GHPGVNTN tham dự Đại Hội thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ Hà Nội, phái đoàn này do HT Thích Thiện Siêu, người không có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo, làm trưởng đoàn, và danh sách đề cử phái đoàn GHPGVNTN có đóng dấu Viện Hóa Đạo.

Sự thật việc đó như thế nào ?

Xin trích một đoạn trong sách “ Nhận Định về Những Sai Lầm của Đảng Cộng Sản Việt Nam Đối với Dân tộc và Phật Giáo ” của Hòa thượng Thích Quảng Độ liên quan vấn đề này :

“…Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố H.T. Trí Thủ, với danh nghĩa Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại diện Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội vào cuối năm đó. Tôi đề nghị, nhà nước đã không cho triệu tập Đại hội bất thường, thì bây giờ phải triệu tập Hội đồng Viện Hóa Đạo gồm mười một quận Giáo hội Đô thành để thông báo cho họ biết về việc này. Cố Hòa thượng Trí Thủ đồng ý.

Hôm sau tôi gửi văn thư mời các vị trong Ban Đại diện Giáo hội của mười một quận về chùa Ấn Quang họp. Hình như họ đã đoán trước được là cuộc họp này rất quan trọng nên họ về dự rất đông, không những chỉ có các vị Đại diện chính thức của mười một quận, mà còn có cả tăng ni về dự thính, ngồi chật giảng đường, đứng ngoài sân và trên các hành lang trong chùa. Cố H.T. Trí Thủ chủ tọa cuộc họp (xin nhắc lại, với tư cách Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo thì ngài là khách, nên lần trước ngài đã về “thăm xã giao” nhà Ngài. Nhưng hôm nay với tư cách Viện trưởng Viện Hóa Đạo nên Ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách Tổng thư kí Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên tuyên bố rõ lý do triệu tập cuộc họp. Trước hết, tôi đọc lại các văn thư mà Viện Hóa đạo đã gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội nói rõ quá trình thành lập Giáo hội và các cơ cấu tổ chức cùng các hoạt động của Giáo hội tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất nước thống nhất, đồng thời, gửi kèm bản Hiến chương và nội qui của Giáo hội để tường trình với nhà nước. Kế đó, tôi nói với các vị Đại diện Giáo hội trong cuộc họp như sau : “Nay H.T. Viện trưởng Viện Hóa Đạo đứng ra làm Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo, không biết ai đã thành lập ban này, thành lập ở đâu và ai đã bầu Hòa thượng làm Trưởng ban, Viện Hóa Đạo hoàn toàn không được biết điều đó, và cho đến nay, Giáo hội cũng chưa chính thức được mời dự bất cứ cuộc họp nào bàn về thống nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội chưa biết thống nhất trên cơ sở nào, theo hình thức nào và sau khi thống nhất, tư cách pháp lý của GHPGVNTN sẽ ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội, phải do Đại hội quyết định. Cách đây mấy hôm, tôi đã được sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng ý thống nhất, tôi đã nói với ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không đủ thẩm quyền quyết định việc quan trọng này, mà phải do Đại hội Giáo hội. Và tôi đã yêu cầu ông Quang Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội bất thường, mỗi tỉnh cần một vị Chánh đại diện hay Thư kí cũng được, nhưng ông Quang Minh đã không đồng ý, viện lẽ không còn đủ thì giờ ! Bây giờ đây H.T. Viện trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo cử Đại biểu Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy Đại hội bất thường thì nhà nước không cho, bởi thế hôm nay Viện Hóa Đạo mời quí vị về họp để hỏi ý kiến và tùy quí vị quyết định”. Trước khi dứt lời để trao quyền điều khiển cuộc họp cho Hòa thượng chủ tọa, tôi có bày tỏ một vài ý kiến như sau :

Kính bạch Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc họp, kính thưa toàn thể quí vị, chắc quí vị cũng như tôi đều thấy rõ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lênh đênh giữa biển khơi và gặp sóng to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị có mặt ở đây hôm nay cảm thấy nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền khác để thoát thân, thì xin quí vị ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả. Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một điều là : trước khi bước sang thuyền khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền Giáo hội lênh đênh trôi dạt trong sóng gió với những người còn ở lại trên đó, họ sẽ cố sức lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn nguy nan mà đến được bờ bình an thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết theo nó, chứ quí vị ấy đừng đang tâm nhận chìm con thuyền của mình mà có lần đã từng đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi lộc, trước khi bước sang thuyền khác. Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi. Tôi dứt lời và cảm ơn quí vị”.

“Khi tôi nói xong thì cả trong hội trường và ngoài sân, ngoài các hành lang nổi lên những tràng pháo tay vang dội, rồi tôi thấy T.T. Trí Tịnh đứng dậy đi ra trước tiên, kế đó là T.T. Minh Châu và sau cùng là Hòa thượng Viện trưởng chủ tọa ! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan. Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại : “Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng tôi về đây để thóa mạ chúng tôi”. Còn lại Thượng tọa Huyền Quang và tôi, chúng tôi nhìn nhau một lúc rồi cũng giải tán !”

Đó là cuộc họp cuối cùng của Viện Hóa Đạo bàn về việc có nên cử đại diện đi dự Đại Hội thành lập GHPGVN tại chùa Quán Sứ Hà Nội hay không, và cuộc họp đã có kết quả bất thành. Viện Hóa Đạo không còn cuộc họp nào khác bàn về vấn đề này nữa..

Hòa Thượng Quảng Độ viết tiếp :

“Ba hôm sau, Văn phòng Viện Hóa Đạo nhận được bản “Thông báo” của Ban vận động thống nhất Phật giáo đề ngày 17-9-1981, do T.T. Minh Châu kí tên, dài lắm, tôi chỉ còn nhớ một đoạn ngắn, vì có lẽ nó là đoạn quan trọng nhất trong bản Thông báo. Đoạn ấy như sau :

“...Thượng tọa Thích Quảng Độ, Tổng thư kí Viện Hóa Đạo, đã triệt hạ uy tín của toàn Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, phá hoại công cuộc thống nhất Phật giáo, ngang nhiên thách thức với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam là những người đang khuyến khích và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật giáo cả nước !”.

“Nhân đây tôi cũng xin thanh minh rằng tôi không chủ trương “phá hoại thống nhất Phật giáo” mà tôi chỉ muốn thống nhất trong tinh thần hòa hợp, đồng thuận theo đúng luật Phật “Hòa hợp phủ ? - Hòa hợp !” (chư tăng có hòa hợp không ? - Hòa hợp !) ; nghĩa là việc thống nhất Phật giáo là việc của chư tăng hai miền Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết định một cách hòa hợp và đồng thuận, chứ tôi không muốn nhà nước cộng sản can thiệp vào rồi bắt chúng tôi phải thống nhất theo ý muốn của nhà nước để sau dễ bề lợi dụng Giáo hội cho những mục đích chính trị và hợp thức hóa cho chủ trương tiêu diệt Phật giáo của đảng và nhà nước cộng sản”.

“Ðến cuối năm 1981, Ðại hội thống nhất Phật giáo chính thức được mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết, T.T. Thích Thiện Siêu cầm đầu một phái đoàn mười người nói là đại diện cho Giáo-hội Phật giáo Việt-nam Thống nhất, có văn thư đề cử đóng khuôn dấu Viện Hóa Ðạo đường hoàng, tôi rất ngạc nhiên. Bởi vì T.T. Thiện Siêu có chức vụ gì trong Viện Hóa Ðạo đâu, mà Viện Hóa Ðạo cử T.T. Thiện Siêu làm đại biểu của Viện đi dự họp, còn khuôn dấu Viện Hóa Ðạo do tôi cất giữ, khi đến văn phòng thì tôi mang đến, hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy khuôn dấu ở đâu ra ? Lúc đầu tôi không tin, bởi lẽ tôi biết T.T. Thiện Siêu là bậc học thức, có đức hạnh, tôi rất kính trọng Thượng tọa và tuyệt đại đa số tăng ni miền Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại có thể làm một việc như vậy, nhưng sau tôi mới biết rõ đó là sự thật !”

Một bằng chứng khác, chứng tỏ GHPGVNTN không hề gia nhập vào GHPGVN, là 2 bức thư của HT Thích Đôn Hậu, Chánh Thư ký Viện Tăng Thống GHPGVNTN viết cho HT Thích Trí Thủ, Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo Việt nam và HT Thích Đức Nhuận, Pháp chủ GHPGVN :


THƯ GỬI HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ,Trưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam

Phật lịch 2525,Linh Mụ, ngày 24 tháng 11 năm1981.

Kính gởi :Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦTrưởng ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt nam.Chủ tịch Đoàn Chủ tịchĐại hội Đại biểu Thống nhất Phật Giáo Việt Nam.(tổ chức tại Hà Nội từ ngày 4 đến 7. 11. 1981).

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Thưa Hòa thượng,

Như Hòa thượng đã biết, từ mùa xuân năm 1980, khi Ban vận động thống nhất Phật Giáo Việt Nam ra đời, tuy quí vị có ghi tên tôi vào Ban vận động, với danh nghĩa Cố vấn, nhưng tôi đã không có sự cộng tác gì với Ban vận động cả, kể cả cuộc Đại hội thống nhất Phật Giáo Việt Nam vừa qua tôi đã vắng mặt. Thế nhưng, qua báo chí và các văn kiện Đại hội phổ biến, lại thấy có tên tôi trong Ban Thường trực Hội đồng chứng minh với chức vụ Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật.

Tôi xin chân thành cảm ơn Hòa thượng và Đại hội đã dành cho tôi vinh dự đó. Tuy nhiên vì lý do sức khỏe nên tôi không thể đảm nhận thêm chức vụ này được nữa, trong khi tôi vẫn còn một trách nhiệm lớn đối với Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất trong cương vị Chánh Thư ký kiêm Xử lý Viện Tăng Thống.

Do đó, nay tôi viết thư này kính tin Hòa thượng rõ, và nhờ Hòa thượng hoan hỷ chuyển đạt tinh thần bức thư này đến quý vị trong Đoàn Chủ tịch cuộc Đại hội vừa qua.

Kính chúc Hòa thượng pháp thể khinh an, chúng sanh di độ. Và mong Hòa thượng nhận nơi đây lòng chân thành của chúng tôi.

Nay thư,Tỳ kheo THÍCH ĐÔN HẬU(ấn ký)


THƯ GỬI HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỨC NHUẬN,Pháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam


Phật lịch 2525,Bệnh viện Thống Nhất, ngày 08.02.1982
Kính gởi :Hòa Thượng THÍCH ĐỨC NHUẬNPháp chủ Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Hòa Thượng,

Vào những ngày cuối cùng của năm Tân Dậu, vì bệnh tình bức bách, nên ngày 21. 01.1982, tôi đành phải rời Huế, vào thành phố Hồ Chí Minh để chữa bệnh, giữa lúc mọi người đang hoan lạc đón xuân sang, và cho đến hiện nay tôi vẫn đang còn được điều trị tại bệnh viện Thống nhất, thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian ấy, ngày 07- 02-1982, tôi lại nhận được lá thư của Hòa thượng gởi cho tôi với danh nghĩa Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật Giáo hội Phật Giáo Việt Nam. Nội dung bức thư ấy, Hòa thượng báo tin cho tôi biết là Hội nghị Đại biểu thống nhất Phật Giáo Việt Nam đã thành tựu viên mãn, cũng như Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định công nhận Bản Hiến chương, danh sách Ban Lãnh đạo và cho phép Giáo hội Phật Giáo Việt Nam hoạt động. Đồng thời Hòa thượng đã có lời khuyên tôi cố gắng cộng tác với Giáo hội trong chức vụ nói trên.

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn lòng thạnh tình của Hòa thượng đối với tôi, đồng thời, tôi rất lấy làm vinh dự và tri ân quý Hòa thượng đã dành cho tôi một chức vụ quan trọng như thế. Nhưng, thưa Hòa thượng, như Hòa thượng đã biết, vào đầu mùa xuân năm 1980, cũng chính là lúc tôi đang nằm điều trị ở bệnh viện Thống nhất này, thì hay tin Ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam được thành lập, trong đó tôi được có tên với danh nghĩa Cố vấn. Thế nhưng bệnh duyên chướng ngại, nên tôi đã không tham gia được một Phật sự nào đáng kể, ngay cả cuộc Hội nghị Đại biểu vừa qua tôi cũng phải vắng mặt. Cho nên, tôi xét thấy mình tuổi đã già, sức đã yếu lại bệnh hoạn liên miên và mỗi ngày càng thêm trầm trọng. Do đó, tôi viết thư này để kính báo với Hòa thượng để Hòa thượng rõ là tôi không thể đảm nhận được chức vụ quan trọng “Phó Pháp chủ kiêm Giám Luật” Giáo hội Phật Giáo Việt Nam mà hội nghị đã đề cử.

Tuy vậy, riêng cá nhân, tôi vẫn luôn luôn tâm nguyện sẽ tiếp tục đem tất cả sức tàn ra phụng sự chánh pháp trong khả năng còn lại của mình và trong điều kiện sức khỏe cho phép.

Rất mong Hòa thượng thông cảm và nhận nơi đây lòng chân thành của tôi. Kính chúc Hòa thượng phước trí nhị nghiêm, chúng sanh dị độ.

Kính thư,Tỳ kheo ĐÔN HẬU(ấn ký)


Do sự léo lận, dối trá, lập phái đoàn giả, đóng dấu giả, mạo xưng GHPGVNTN tham dự Đại Hội tại chùa Quán sứ Hà Nội, nhà cầm quyền Cộng sản đã phi pháp tuyên bố rằng, GHPGVNTN đã tự nguyện sáp nhập vào GHPGVN của Mặt Trận Tổ Quốc từ năm 1981, nay không còn nữa.

Sau khi thành lập tổ chức Trung Ương GHPGVN ở Hà Nội xong, nhà cầm quyền cộng sản thành lập các tổ chức GH tại địa phương. Bắt đầu là Thành phố Sài gòn. Lúc này, nhị vị Hòa Thượng Phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo Thích Huyền Quang và Hòa Thượng Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo Thích Quảng Độ vẫn tiếp tục làm việc tại Văn Phòng Viện Hóa Đạo chùa Ấn Quang, hào quang của hai Hòa Thượng vẫn phủ khắp, chư Tăng vẫn hướng về GHPGVNTN, không ai chịu nhận bất cứ chức vụ gì trong Giáo Hội nhà nước. Để đối phó trở ngại này, có người hiến kế, “đập rắn phải đập đầu”, Cộng sản thực hiện ngay bằng cách bắt hai Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ đem đi lưu đày biệt xứ. Nhờ đó việc thành lập Giáo Hội nhà nước thành phố Sài gòn cũng hoàn tất nhanh chóng, vì chư Tăng, nghe tin hai Hòa Thượng đã bị bắt, ai cũng khiếp sợ, răm rắp tuân theo. Đến đây, GHPGVNTN như rắn mất đầu, các Phật sự đều bị đình đốn, vì một số thành viên lãnh đạo đi tỵ nạn ở nước ngoài, số còn lại hoặc bị tù hoặc bị giết. Mãi đến năm 2003, Đại Hội Bất Thường tại Tu Viện Nguyên Thiều tỉnh Bình Định, Hội Đồng Lưỡng Viện mới được kiện toàn đầy đủ, tiếp đó là Ban Đại diện GHPGVNTN các Tỉnh, Thành, Quận, Huyện tái phục hoạt trở lại.

Đó là những bằng chứng GHPGVNTN không hề gia nhập GHPGVN của nhà nước, chỉ có những cá nhân thuộc GHPGVNTN gia nhập GHPGVN mà thôi. Nhà cầm quyền cộng sản cũng không có một văn thư nào chính thức giải thể GHPGVNTN. Vì vậy GHPGVNTN vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục hoạt động, mặc dù Phật sự có đôi lúc bị đình trệ, nhưng GHPGVNTN vẫn sống, và tiếp tục sống. Nhà cầm quyền Cộng sản, đến nay, vẫn chưa giải quyết những khiếu nại của GHPGVNTN về những vi phạm như, phải làm minh bạch cái chết của Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Cố vấn Viện Hóa Đạo, phải hoàn trả ngôi Việt Nam Quốc Tự và các tài sản khác cho GHPGVNTN mà Nhà cầm quyền Cộng sản đã cưỡng chiếm bất hợp pháp sau năm 1975. Trong khi chưa giải quyết những khiếu nại, những nợ nần của GHPGVNTN, Nhà cầm quyền Cộng sản lại tìm cách dụ dỗ GHPGVNTN đăng ký, mặc nhiên, trở thành một Giáo Hội tân lập, đoạn tuyệt hẳn với quá khứ, để khỏi phải giải quyết những món nợ đã gây ra cho GHPGVNTN hay sao ?. GHPGVNTN không phải là Giáo Hội tân lập. GHPGVNTN không cần “đăng ký” với ai cả.

Có nhiều người, cả trong lẫn ngoài nước, ngay cả một số thành viên của GHPGVNTN, không rõ vấn đề phức tạp, lắc léo này, không biết rằng pháp lý của GHPGVNTN từ trước đến nay hoàn toàn hợp pháp. Hơn nữa, ở miền Nam Việt nam này chưa có tôn giáo nào xét lại pháp lý cả.

Khi thành lập xong GHPGVN, thành viên của Mặt Trân Tổ Quốc, một công cụ của đảng Cộng sản, nhà cầm quyền bắt đầu tổ chức những cuộc đấu tố nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ trên khắp cả nước.

Chiến dịch này, với sự tuyên truyền rộng rãi trên các báo đài, trong nội bộ Tăng Ni bằng sự kích động, xúi giục, móm ý cho rằng hai Ngài là “thiểu số” chống lại đa số (luận điệu đưa ra là chỉ có 2 Hòa thượng thuộc GHPGVNTN chống lại Giáo Hội nhà nước, trong khi có cả chục ngàn Tăng, Ni gia nhập Giáo hội Nhà nước), hai Ngài “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”, “phá hòa hợp Tăng”, “phản động”, v.v… Nhưng nhà cầm quyền cộng sản không thu hoạch được gì, vì do chư Tăng không còn lối thoát, bị ép buộc, đe dọa, khủng bố nên buộc lòng phải gia nhập Giáo Hội nhà nước, nhưng lương tâm mỗi người không ai mở miệng nói ra những lời lẽ trái đạo, khinh sư diệt tổ, chống lại gốc rễ, cội nguồn. Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo nhắc nhở rằng : “Dù làm việc gì, ở đâu, không ai trong chúng ta quên rằng mình là thành viên của GHPGVNTN”.

Một đóa sen thơm xin cúng dường cho mỗi chư Tăng, và những ai tuy sống trong bùn lầy nước đọng, nhưng lòng vẫn tinh khiết, không nhiễm tanh hôi. Chỉ tiếc rằng, những vị lãnh đạo Giáo Hội, nhất là những vị lãnh đạo cao cấp, làm đầu tàu, làm thuyền trưởng, trong lúc sóng to, gió lớn, không vững tay chèo, vội bỏ thuyền cũ, bước sang thuyền mới, bỏ lại bao khách lữ lênh đênh trong sóng gió, bão bùng. Mà cái Giáo Hội mới ấy, thực chất là gì ? Hãy nghe Ông Đỗ Trung Hiếu, kiến trúc sư làm ra cái Giáo Hội ấy ăn năn, bộc bạch : “Cuộc Thống nhất Phật Giáo lần này, bên ngoài do các Hòa thượng gánh vác, nhưng bên trong bàn tay Đảng Cộng sản Việt nam xuyên suốt quá trình thống nhất để nắm và biến tướng Phật giáo Việt Nam trở thành một tổ chức bù nhìn của Đảng”. Vậy, con thuyền mới, cái Giáo Hội mới đó, có đẹp đẽ gì đâu, chỉ là một cái hội chẳng những không có tính cách pháp nhân của một tôn giáo lớn như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại cũng chẳng được hưởng quy chế Hiệp hội như thời thực dân, mà nó chỉ còn là một tổ chức có tính cách nằm trong hiệp hội, đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Như lời than của Hòa thượng Thích Đức Nhuận, Cố vấn Viện Hóa Đạo :

“Đau xót biết bao”, Hòa thượng Đức Nhuận viết như đang khóc, “khi Phật giáo Việt Nam từ con lạch nhỏ đă vùng thoát ra được đại dương, thì nay quí Ḥòa thượng lại tự bước vào một vũng ao tù”. (tài liệu của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Paris)

Sau năm 2003, GHPGVNTN vừa mới phục hoạt, còn yếu ớt, Cộng sản lại tiếp tục dùng phương sách cũ, cài người vào Giáo Hội, dụ dỗ, bắt chẹt, dùng người của GHPGVNTN chống phá GHPGVNTN, nhất là tuyên truyền GHPGVNTN sống không có pháp lý, đưa ra chiêu bài đăng ký, hoặc hòa hợp hòa giải, làm văn hóa, từ thiện… tạo ra tình trạng ly khai, chia rẽ trong Giáo Hội. Nhưng rất may, Đức Cố Tăng Thống, Đại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang đã sáng suốt kịp thời ban hành Giáo Chỉ số 09, tái thiết cơ cấu, chấn chỉnh nhân sự cho Giáo Hội vững chắc, Phật sự không bị trở ngại. Nếu không, GHPGVNTN, một lần nữa, lại bị thêm một cơn biến động làm tan nát, đình trệ như năm 1981.

Ngày 29.3.2009, Đại Lão Hòa thượng Thích Quảng Độ Xử Lý Viện Tăng Thống, kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cất Lời Kêu Gọi Biểu tình tại gia, Bất tuân dân sự để bảo vệ Tổ quốc Việt nam khỏi họa xâm lăng của Trung cộng, nên Trung cộng và tay sai rất cay cú, một lần nữa, tìm cách bôi nhọ pháp lý của GHPGVNTN, vu cho rằng, GHPGVNTN là mạo xưng.

Thật ra, Nhà cầm quyền cộng sản mới là kẻ trí trá đóng dấu giảViện Hóa Đạo, mạo lập phái đoàn GHPGVNTN giả để tham gia Đại Hội tại chùa Quán Sứ Hà nội năm 1981, để nói rằng GHPGVNTN đã “gia nhập vào Giáo hội của nhà nước”, GHPGVNTN không còn nữa. Cũng như thế, Trung cộng không thể căn cứ vào Công Hàm bán nước, bất hợp pháp, vô giá trị của Thủ tướng Bắc Việt, Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958, dâng hai quần đảo Hoàng sa, Trường sa cho Trung cộng để khi nhà cầm quyền Việt Nam bổ nhiệm Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa, ngày 29.4.2009, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung quốc Khương Du, cả quyết : “Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo Tây Sa cùng vùng biển xung quanh. Trung Quốc và Việt Nam không tồn tại tranh luận đối với quần đảo Tây Sa. Cách làm kể trên của phía Việt Nam là trái phép và vô hiệu”. Cộng sản với bản chất vô thần, độc tài, luôn gian dối, làm những điều ngang ngược, vô lý !

GHPGVNTN là Giáo Hội Dân lập, kế thừa 2000 năm của chư Tổ, có quyền sống, vẫn sống, vẫn tiếp tục cùng Dân tộc vận động cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và toàn vẹn lãnh thổ cho quê hương Việt Nam đến ngày thành công.

Thích Viên Định


----------------------------------------


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤTVIỆN HOÁ ĐẠOTỔNG VỤ THANH NIÊNGIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAMVP : Chùa Giác Minh - K356/42 Đường Hoàng Diệu - Thành Phố Đà Nẵng--------------------------------------------------------------------------------------------------

GIÁC THƯ SỐ 4VỤ TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ VỤGIA ĐÌNH PHẬT TỬ VIỆT NAM

KÍNH GỞIANH CHỊ EM HUYNH TRƯỞNG GIA ĐÌNH PHẬT TỬ CÁC CẤPQUỐC NỘI VÀ HẢI NGOẠI
Trích yếu : Thư khuyên nhủ Trần Thanh, và Ý nghĩa “Lời Kêu gọi Tháng 5 Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia” của Đại lão Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN(Tư liệu Gia Đình Phật tử)


Kính thưa toàn thể Anh Chị Em Huynh Trưởng

Thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo đã ban hành “Lời Kêu Gọi Một Tháng Bất Tuân Dân Sự và Biểu Tình Tại Gia” để phản đối Đảng Cọng Sản Việt Nam “Đổi Vàng Dân Tộc Lấy Nhôm Nước Ngoài” qua việc rước nhà thầu Trung Quốc vào khai thác Bô Xít tại Tây Nguyên.

Bất Tuân Dân Sự và Biểu Tình Tại Gia là hành động phản kháng đã được áp dụng nhiều nơi trên Thế Giới và ngay cả Việt Nam trong công cuộc giải trừ Quốc Nạn và Pháp Nạn trong các giai đoạn lịch sử vừa qua.

Tuy nhiên từ ngữ “Bất Tuân Dân Sự” và “Biểu Tình Tại Gia” mới được Hoà Thượng Xử Lý Thường Vụ Viên Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo dùng lần đầu tiên, vì thế những người chưa tìm hiểu cảm thấy ngỡ ngàng trước một phương thức đấu tranh quá mới mẻ. Lợi dụng sự ngỡ ngàng đó, các thế lực chống đối Lời Kêu Gọi đã cố ý xuyên tạc nội dung cũng như ý nghĩa của nó, mặc dù đã có nhiều sự giải thích được phổ biến qua rất nhiều bài vở đăng tải trên báo chí hải ngoại hoặc phát biểu qua các Đài phát thanh quốc tế. Tuy nhiên những sự giải thích nầy đều dựa trên căn bản Triết học cũng như Luật học, do đó những ai không có kiến thức về Triết học và Luật học đều chỉ hiểu vấn đề một cách tổng quát.

Vừa qua tôi có đọc 3 bài viết của tác giả Trần Thanh bài xích Lời Kêu Gọi của Hoà Thượng Viện Trưởng được đăng tải trên Diễn Đàn TinParis. Trần Thanh đã dùng một loại ngôn ngữ tục tỉu, thô ác và hạ cấp để phân tích và kết luận một cách lệch lạc về nội dung cũng như ý nghĩa của Lời Kêu Gọi, đồng thời bịa đặt nhiều chi tiết để bôi nhọ nhân cách Hoà Thượng nhằm đánh lạc hướng Đồng Bào và Phật Tử Việt Nam.

Với trách nhiệm của một thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, tôi đã viết thư gởi Trần Thanh với tất cả sự chân thành và quí mến vì nhiệt huyết của Trần Thanh cũng như các bạn trẻ Hải ngoại đấu tranh cho Dân Chủ và Nhân Quyền Việt Nam trong thời gian qua.“ Bất Tuân Dân Sự và Biểu Tình Tại Gia ” mà tôi phân tích cho Trần Thanh hôm nay đứng trên quan điểm phổ thông mà ai cũng có thể hiểu rõ giá trị thực tiễn của nó. Vì vậy bức thư nầy tôi đưa vào nội dung Giác Thư Số 4 để Anh Chị Em Huynh Trưởng nắm vũng các điều cơ bản trong công cuộc kế tục vận động Bất Tuân Dân Sự Và Biểu Tình Tại Gia cho đến ngày đất nước thật sự Tự Do và Dân Chủ.

LÊ CÔNG CẦU154 Phan Bội Châu, HuếĐT : 0914172287
_____


THƯ KHUYÊN NHỦ TRẦN THANH


Thưa Trần Thanh,

Sống trong vòng cương toả của chế độ Cọng Sản Việt Nam, chúng ta mới thấy trân quí những tiếng nói đòi hỏi tự do, nhân quyền cho đất nước và dân tộc được cất lên từ quốc nội. Những tiếng nói ấy là hồi chuông ngân vang trong đêm tối hãi hùng, xoá tan nỗi sợ hãi và gieo rắc niềm tin cho một bình minh sẽ đến. Mà có phải 85 triệu dân ai cũng nói được cả đâu. Chỉ có những người tâm huyết mới dám đem mạng sống của mình để đổi lấy một tiếng nói cho Dân Tộc cho Tổ Quốc. Trong những tiếng nói hiếm hoi ấy, Hoà Thượng Viện Trưởng của chúng tôi như là một người tiên phong mà cả thế giới thán phục và ca ngợi. Tôi nghĩ Trần Thanh cũng không thể phủ nhận đó là một sự thật.


Vì nó quí hiếm như vậy cho nên chúng tôi đã thiết tha trông chờ thêm những tiếng nói cất lên từ Hải ngoại. Những tiếng nói ấy không chỉ là sự đồng tình của những người ruột thịt tha hương mà nó là những liều thuốc tăng lực giúp cho chúng tôi thêm niềm tin để chịu đựng những nghiệt ngã của thế quyền giáng xuống. Trong những tiếng nói ấy, có tiếng nói của Trần Thanh mà tôi đã một thời vô cùng trân trọng.

Nhưng cách đây mấy hôm tôi đọc 3 bài viết của Trần Thanh do TinParis đăng tải và một vài diễn đàn đã phổ biến :

1/.Một vài nhận định về Lời Kêu Gọi “ Bất Tuân Dân Sự “ của Hoà Thượng Thích Quảng Độ.

2/.Phong trào kháng chiến “ Chống Giặc Tàu Tại Gia ”

3/.“ Biểu Tình Tại Gia ” bẩy rập nguy hiểm của Việt gian Cọng sản.
Những từ ngữ tục tỉu, hỗn láo, thô ác, bịa đặt là nền tảng của cả 3 bài viết nêu trên. Chưa bàn đến chuyện đúng sai, mà chỉ đọc những từ ngữ ấy thôi người ta thấy ngay Trần Thanh đã phản bội lại những đặc tính cao quí của Dân Tộc Việt Nam, và phản bội ngay cả chính mình.

Trong những ngày qua đã có nhiều người lên tiếng để chỉ cho Trần Thanh thấy được cái sai trái của mình như Kim Dung, Nguyễn Phúc Liên, Nguyễn Khắc Anh Tâm, Nam Dao, Bảo Quốc Kiếm… Riêng tôi, lá thư nầy như là một tâm tình nghiêm khắc tôi gởi đến Trần Thanh vì 5 điều sau đây :

1/. TRẦN THANH ĐÃ PHẢN BỘI LẠI BẢN CHẤT CỦA DÂN TỘC VIỆT :

Bản chất ấy chỉ gói gọn trong một câu ngắn ngủi : Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn mà chúng ta đã nghe, đã thấy và đã học khi mới bước chân vào ngưỡng cửa nhà Trường. Con người mà lễ nghĩa không có thì văn chương của họ chỉ là một thứ vũ khí bịp bợm cho nên ca dao Việt Nam có câu rằng :

Văn chương chữ nghĩa một bồ.Đạo đức một nắm là đồ lưu manh

Trần Thanh hãy nhìn lại các bài viết của mình có một chút lễ nghĩa nào không. Văn dĩ tải đạo, mà cái đạo không có thì cái văn hoàn toàn lếu láo, như thế Trần Thanh đã phản bội lại bản chất của con người Việt Nam như tôi nhận xét.

2/.TRẦN THANH ĐÃ PHẢN BỘI LẠI LUÂN LÝ CỦA DÂN TỘC VIỆT :

Luân lý ấy cũng chỉ là một câu rất đơn giản, đó là Kính Trên Nhường Dưới, nhưng cái câu mộc mạc ấy làm nền cho trật tự xã hội và đem lại êm ấm gia đình.

Bài viết của Trần Thanh bất kính người trên, hiếp đáp người dưới, ai cũng chê ngu chê thối đó chính là đầu mối của rối loạn xã hội, của tan nát gia đình. Bản thân của Trần Thanh không biết giữ kỷ cương của gia đình, của xã hội thì Thanh phê phán ai đây.

Thanh có biết tại sao lực lượng đánh giặc chủ yếu là thanh niên mà Nhà Trần không triệu tập Hội Nghị Thanh Niên để bàn mưu chống giặc, mà Nhà Trần lại triệu tập Hội Nghị Diên Hồng gồm những ông già da mồi tóc bạc, có người tai điếc mắt mờ, có người lưng còng răng rụng để tìm phương thức cứu nước hay không ?


Lớp già mà quyết chiến, quyết chiến, chiến đến cùng thì lớp trẻ tính sao đây. Với bầu nhiệt huyết có sẵn của lớp trẻ được nung nấu thêm tinh thần bất khuất của tuổi già, cho nên tinh thần chiến đấu của thanh niên sẽ được nhân đôi. Nhà Trần biết khai thác sức mạnh luân lý của Dân Tộc, ngược lại Trần Thanh phỉ báng nền luân lý ấy, thì thử hỏi có phải Trần Thanh là kẻ phản bội hay không ?

3/.TRẦN THANH PHẢN BỘI LẠI NỀN VĂN HOÁ DÂN TỘC :

Văn hoá Dân Tộc cũng chỉ là một câu thật mộc mạc : Lựa Lời Mà Nói Cho Vừa Lòng Nhau. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau không phải là lời nói nịnh hót, mà lời nói có giá trị cảm hoá mọi người, mọi người đều vừa lòng, vừa náo nức nghe theo. Lời nói ấy là căn bản cho một xã hội thanh bình, đóng góp cho nền văn hiến của Quốc Gia.

Trần Thanh thân mến, sau năm 1975 tôi còn nấn ná dạy thêm mấy tháng rồi mới bị sa thải. Trong mấy tháng thực hiện thiên chức giáo viên Xã hội Chủ nghĩa, một hôm chúng tôi được Sở Giáo Dục phân phối sách giáo khoa cả 3 cấp, 1, 2 và 3 đưa từ Miền Bắc vào để cho giáo viên tham khảo. Trong một quyển sách giáo khoa cấp 2 có bài Bác Hồ đến thăm một đơn vị Thương binh, Bác hỏi : “Các chú ăn ỉa thế nào ?” bọn giáo viên chúng tôi sửng sờ. Một thời gian sau, khi đọc các sách giáo khoa đã chỉnh lý, tôi thấy các bài phi văn hoá đó biến mất, chứng tỏ nó đã bị xã hội đào thải, dù do chính cửa miệng của “Hồ Chủ Tịch Vĩ Đại” nói ra. Giờ đây Trần Thanh sử dụng những từ ngữ thô lậu hơn Bác Hồ cả ngàn lần chứng tỏ Trần Thanh đã quá coi thường xã hội, có phải Trần Thanh đã phản bội lại tiền trình văn hoá Dân Tộc hay không ? Vì văn hoá Dân Tộc không chấp nhận những ngôn từ thô lỗ nầy.

4/. TRẦN THANH PHẢN BỘI LÝ TƯỞNG ĐẤU TRANH CỦA DÂN TỘC :

Dân Tộc Việt Nam đang khao khát một nền tự do và dân chủ thật sự. Một tiếng nói cất lên đòi hỏi cho tự do dân chủ là một đoá hoa tươi thắm trong tiến trình đấu tranh của dân tộc. Thế nhưng Trần Thanh đã dùng mọi thủ đoạn phi văn hoá để vùi dập không nương tay. Những lời lẽ bẩn thỉu, thô tục, nhớp nhúa đã được Trần Thanh đem bôi lên các lời kêu gọi tâm huyết. Đối với các bậc trưởng thượng như Hoà Thượng Quảng Độ, các bậc đàn anh như BS Nguyễn đan Quế, Nguyễn Phúc Liên mà Trần Thanh trù dập như thế thì thử hỏi lớp trẻ ai còn dám lên tiếng ?

Trần Thanh còn nhớ trong phiên toà xử Linh mục Nguyễn Văn Lý, công an đã ngang nhiên bịt miệng linh mục ngay giữa toà. Trần Thanh đang sử dụng những lời lẽ tục tỉu, nhơ nhớp, bịa đặt để bôi nhọ, xỉ vả, vu khống các nhà đấu tranh kiên cường, các nhà dân chủ tâm huyết đó là một cách bịt miệng tinh vi thâm độc hòng chận đứng những tiếng nói yêu nước cất lên từ quê nhà và hải ngoại. Hai thủ đoạn tuy khác nhau nhưng cùng một mục đích là dập tắt lý tưởng đấu tranh của Dân Tộc, đó là một hành động phản bội, xin Trần Thanh hãy suy nghĩ.

5/. TRẦN THANH PHẢN BỘI CHÍNH MÌNH :

Trần Thanh hò hét : “ phải tiêu diệt ngay đảng Cọng Sản để cứu nguy dân tộc ”. Nhưng từ khi Lời Kêu Gọi được ban hành, một lần nữa nhà nước Cọng Sản đã nỗ lực dùng các tờ báo An Ninh Thế Giới, Công An Nhân Dân … đưa các bài mạ lỵ vu khống, xuyên tạc nhằm hạ bệ Hoà Thượng Thích Quảng Độ hòng tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thì hầu như cùng lúc Trần Thanh cho phổ biến các bài xuyên tạc đả kích bôi nhọ Hoà Thượng Thích Quảng Độ trên diễn đàn TinParis.

Sự phối họp đồng bộ và chặt chẽ nầy đã tố cáo Trần Thanh phản bội chính mình.

Đòi tiêu diệt Cọng Sản, nhưng lại tiếp tay với Cọng Sản một cách đắc lực và kịp thời chứng tỏ Trần Thanh nói một đường làm một nẻo. Những người nói một đường làm một nẻo là họ tự đánh mất nhân cách của mình hay nói cách khác là họ tự phản bội bản thân của mình.

Đọc những bài viết của Trần Thanh ai cũng giận cả. Vì giận cho nên mỗi người đã bày tỏ thái độ của mình bằng những cách khác nhau. Riêng tôi vốn trước đây đã cảm mến Trần Thanh cho nên tôi có một cái nhìn khác biệt : tôi thấy Trần Thanh đã quá hăng tiết khi truy kích quân thù. Hăng đến nỗi quên cảnh giác cho nên Trần Thanh đã đánh rơi cả vũ khí lẫn lương thực, vậy thì khi tiếp cận được với kẻ thù thì Thanh còn gì đâu để chiến đấu để bảo vệ mình, bảo vệ non sông. Bản chất, luân lý, văn hoá, lý tưởng của dân tộc đó chính là vũ khí. Niềm tin của đồng bào, của xã hội đó là lương thực nuôi ta kiên trì tranh đấu. Đánh mất bản chất, luân lý, văn hoá, lý tưởng thì đâu còn tư cách để đấu tranh, đánh mất niềm tin của dân tộc thì sự đấu tranh trở thành vô nghĩa.

Từ những suy nghĩ đó tôi muốn tạo cơ hội cho Trần Thanh nhìn lại chính mình, hãy nhặt lại những gì mình đã đánh mất để làm hành trang vào đời thêm một lần nữa. Mà muốn nhìn lại chính mình và nhặt lại những gì mình đánh mất thì trước hết Trần Thanh hãy nghe tôi giải thích ý nghĩa Lời Kêu Gọi của Hoà Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để so sánh với nhận định của chính mình :


Ý NGHĨA LỜI KÊU GỌI


BẤT TUÂN DÂN SỰ LÀ GÌ ?

Dân Sự là sự sống của người dân. Sự sống được thể hiện bằng hơi thở, ăn uống, ngủ, nghĩ , đi đứng, làm việc… Thiếu những điều kiện nầy con người sẽ chết. Đây là quyền tự nhiên của con người, đã gọi là quyền tự nhiên thì không ai ban cho và con người cũng không cần xin xỏ ai cả. Các quyền tự nhiên ấy được các thể chế dân chủ qui định là các quyền căn bản của con người được pháp luật bảo vệ. Người nào, chế độ nào, đảng phái nào, chính quyền nào chà đạp lên các quyền căn bản ấy là vi phạm nhân quyền. Ngược lại, đây là các quyền tự nhiên của người dân nên người dân có quyền từ bỏ mà không vi phạm pháp luật. Việc từ bỏ quyền sống của chính mình gọi là bất tuân dân sự. Thông thường nguyên nhân dẫn đến việc người dân từ bỏ quyền sống của mình đều mang theo một tinh thần phản kháng bất bạo động. Tôi ví dụ : con cái giận cha mẹ vì cha mẹ làm điếu sai trái, nhưng vì chữ hiếu người con không thể nặng lời nên đành nhịn ăn để phản đối. Đó là một hành vi bất tuân dân sự. Đứa học trò bỏ học để phản đối thầy giáo bất công với mình, người công nhân bỏ việc làm để phản đối chủ có hành vi bóc lột, đó là bất tuân dân sự. Đi xa hơn một chút nữa là khi người tu hành từ bỏ thân mạng, tự thiêu để phản đối chính quyền độc tài, khi người Phật Tử từ bỏ thân xác để tuyệt thực đòi hỏi tự do tôn giáo, khi người tiểu thương từ bỏ nguồn sống để đình công bãi thị, khi người sinh viên từ bỏ tương lai tươi sáng để bãi khoá đấu tranh. Tất cả đó là hành vi bất tuân dân sự chứ có mới mẻ gì đâu.

Vậy bất tuân dân sự là hành vi hợp pháp. Nó hoàn toàn trái ngược với bất tuân hình sự, bởi vì hình sự là hình phạt giành cho những người vi phạm luật pháp như tham nhũng, hối lộ, giết người, trộm cướp, hiếp dâm…. Những hình phạt ấy được toà án phán quyết và người dân phải chấp hành.

Như vậy Bất Tuân Dân Sự được pháp luật bảo hộ, ngược lại Bất Tuân Hình Sự bị pháp luật chế tài. Đó là 2 phạm trù trái ngược, Xin Trần Thanh cũng như những ai có ý đồ hắc ám đừng trộn lẫn hai phạm trù nầy lại để đánh lận con đen.

BIỂU TÌNH TẠI GIA LÀ GÌ ?

Biểu tình là sức mạnh vô địch trong đấu tranh ôn hoà. Không biểu tình ngoài đường được thì biểu tình tại nhà. Đã gọi là biểu tình tức là phản kháng. không lẽ Trần Thanh quá ngu dốt khi đồng hoá việc tụ tập trong nhà để ăn nhậu, để hút xách, để đánh bạc cũng gọi là biểu tình tại gia. Những hành vi ăn nhậu, hút xách đánh bạc là hành vi đồi bại, hưởng thụ, thoả mãn, cho nên không thể gọi là biểu tình vì nó đâu có mang tính chất phản kháng, mà ngược lại nó mang tính chất vi phạm pháp luật thì sao lại gọi là biểu tình tại gia được.

Tại Hải ngoại, Lời Kêu Gọi được ban hành ngày 29.3.2009, thì lập tức được sự hưởng ứng nồng nhiệt của các tổ chức, các hội đoàn trong cộng đồng người Việt tại các châu lục trên thế giới. Ngày 11.4 cuộc Hội Luận Paris mở đầu cho công cuộc vận động yêu sách nhà nước Cọng Sản phải đáp ứng Lời Kêu Gọi. Tiếp theo là cuộc hội luận tại chùa Điều Ngự ở California, Hoa Kỳ, ngày 19.4 với sự tham dự đông đảo của Đồng Bào và Phật Tử cùng các Đảng Phái, các Tổ Chức của Cộng Đồng Người Việt tại Hoa Kỳ. Và các cuộc hội luận tiếp diễn tại Canada, tại Hoà Lan, tại Đức cho thấy hầu như toàn bộ Cộng Đồng người Việt Hải Ngoại đã hưởng ứng Lời Kêu Gọi với tất cả nhiệt huyết và tâm thành. Đó chính là những cuộc biểu tình tại gia đã làm sơn hà rung chuyển, dù nó xảy ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Tại Quốc Nội thì sao ? Công nhân vẫn đến xưởng, học sinh, sinh viên vẫn đến trường, tiểu thương vẫn đến chợ và nông dân vẫn ra đồng có nghĩa là Lời Kêu Gọi chẳng được đáp ứng hay chăng ?

Xin hãy đọc tuyên cáo của những nhà trí thức Việt Nam, các nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, nhà quân sự để thấy sự liên hệ nhân quả của Lời Kêu Gọi được trực tiếp hay gián tiếp thể hiện trên quan điểm của họ. Phải chăng đây là một hình thức Biểu Tình Tại Gia ?

Xin hãy nhìn về kinh thành Huế trong mùa Phật đản, ngoài những lễ đài do nhà nước và Giáo Hội nhà nước dựng lên ở Từ Đàm, ở An Hoà, An Cựu, những dãy cờ đỏ sao vàng núp bóng cờ Phật Giáo từ Nam Giao về Bên Ngự và hai bờ sông Hương, thì hình ảnh cờ đèn, lễ đài tư gia tưng bừng như mọi năm, năm nay vắng bóng vì đâu. Phải chăng là vì Lời Kêu Gọi đã được phổ biến sâu rộng khắp cả kinh thành. Thái độ không treo cờ không thắp đèn phải chăng là một cuộc Bất Tuân Dân Sự , Biểu Tình Tại Gia của người Phật tử Cố Đô mà ai quan tâm cũng sẽ dễ dàng nhận thấy.

Xin hãy nhìn 3 đêm cầu nguyện tại Tổ đình Quốc Ân, Lời Kêu Gọi được tuyên đọc hào hùng trong đêm tối, 850 ngọn nến tượng trưng cho 85 triệu đồng bào lung linh trên bản đồ Việt Nam yêu dấu, 3 vị Hoà Thượng trên 80 tuổi cùng ngồi với hằng trăm tăng tín đồ chấp tay chân thành cầu nguyện trong đêm tối mịt mùng đã cảm động đất trời.

Đó chính là Biểu tình Tại gia, là Bất tuân Dân sự .

Thưa Trần Thanh, sở dĩ tôi kể lể dài dòng như thế để cho Trần Thanh hiểu rằng Lời Kêu Gọi Biểu Tình Tại Gia - Bất Tuân Dân Sự của Hoà Thượng Viện Trưởng là cái gốc, còn hình thức biểu hiện là trăm hoa đua nở trên cái gốc vững chãi kia, chứ không phải biểu tình tại gia là chỉ trùm mền nằm ngủ như Trần Thanh nhận định một cách thô ác và dung tục.

Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA LỜI KÊU GỌI :

Thưa Trần Thanh.

Qua bản nhận định của Trần Thanh tôi thấy có 2 vấn đề cần phải sòng phẳng :

1/ Trần Thanh viết :

“Chúng ta cần tỉnh táo để xác quyết các mệnh đề như sau :
“…Kẻ thù chính của chúng ta là bọn Việt Gian Cọng Sản và bằng mọi giá chúng ta phải tiêu diệt bọn chúng.
“…Chúng ta phải đánh vào cái gốc chớ không phải đánh vào cái ngọn.
“…Việc trước tiên ta phải làm là tiêu diệt bọn việt gian cọng sản.
“…Đó là, phải trị bệnh tận gốc, phải tiêu diệt bọn việt gian cọng sản”.

Thanh viết quá hùng hồn, nhưng thưa Trần Thanh, Trần Thanh tiêu diệt cọng sản bằng cách nào, đánh vào cái gốc bằng cách nào, trị bệnh tận gốc bằng cách nào ? tôi không hề nghe Thanh nhắc đến. Như vậy thì đứa con nít cũng biết Trần Thanh đang đánh võ mồm có phải không ?

2/.Ngược lại Hoà Thượng của chúng tôi đã đưa ra phương sách rất rõ ràng :

a/. Một tháng Bất tuân Dân sự - Biểu tình Tại gia để phản đối Đảng Cọng Sản Việt Nam rước Trung Cọng vào tàn phá quê hương qua việc khai thác bôxit Tây Nguyên. Trong hơn 30 năm qua chúng ta đấu tranh bằng ngôn ngữ chứ chưa bằng hành động. Biểu Tình Tại Gia và Bất Tuân Dân Sự là hành động khởi đầu để hướng dẫn đồng bào qua một giai đoạn đấu tranh mới mà ai cũng có thể tham gia.

b/.Việc chống khai thác bôxit Tây Nguyên là tiền đề để tiến tới 3 mục tiêu quan trọng :

MỤC TIÊU THỨ NHẤT :

“Yêu cầu Nhà cầm quyền Việt Nam cấp tốc nạp hồ sơ xác nhận thềm lục địa của mình theo Công Ước Liên Hiệp Quốc Về Luật Biển cho Uỷ Ban Ranh Giới Thềm Lục Địa (UNCLOS) trước ngày qui định của LHQ, là ngày 13 tháng 5 năm 2009, để bảo vệ quyền lợi và lãnh hải tổ quốc”.

Trần Thanh nhận định : “Yêu sách một : rất ngu và rất thối.
“Nếu bọn việt gian cọng sản là một chính quyền thực sự vì dân vì nước thì bọn chúng thừa biết chúng phải làm gì để bảo vệ giang sơn đất nước. Không việc gì chúng ta phải làm thầy dùi khuyên bọn chúng phải làm thế nầy, thế nọ để bảo vệ lãnh hải”.

Thưa Trần Thanh ! Sao Trần Thanh lại dùng chữ “ NẾU”. Không lẽ Thanh không thấy chính quyền Cọng Sản Việt Nam hiện nay không hề vì dân vì nước, họ chỉ vì đảng và vì khối đại đồng xã hội chủ nghĩa cho nên họ đã dâng đất, dâng biển, và dâng cả vùng Tây Nguyên cho Trung Cọng làm căn cứ địa khống chế toàn vùng Đông Nam Á dưới chiêu bài khai thác bôxit đó sao ? Cho nên chúng ta phải lên tiếng phản đối những việc làm hại nước hại dân để bảo vệ tổ quốc, bảo vệ dân tộc. Sao Thanh lại nói “ không việc gì chúng ta phải đi làm thầy dùi, khuyên bọn chúng phải làm thế nầy thế nọ để bảo vệ lãnh hải.

Nếu Trần Thanh là người yêu nước chắcTrần Thanh không muốn lãnh hải Việt nam biến thành một con lạch nhỏ chạy dài từ Bắc chí Nam chứ. Trần Thanh không muốn hằng triệu đồng bào ngư dân Việt Nam thất nghiệp đói nghèo vì mất ngư trường đánh bắt hải sản chứ. Trần Thanh không muốn tài nguyên đáy biển của Việt Nam biến thành món mồi béo bở của bọn thực dân Phương Bắc chứ.
Trần Thanh nói tiếp : “Chúng mày là những thằng nguỵ thua trận, mất nước, không việc gì phải dạy khôn chúng ông”.

Thưa Trần Thanh, những kẻ thua trận, những kẻ mất nước thì phải cam tâm làm nô lệ suốt đời hay sao, vậy thì ý chí phục quốc, truyền thống bất khuất của dân tộc Thanh để ở đâu. Tôi thật sự lấy làm xấu hổ và nhục nhã khi trong hàng ngũ thanh niên Việt Nam có những kẻ bại hoại như Trần Thanh. Thanh có học lịch sử không ? Có thấy bà Trưng Bà Triệu đã dạy khôn cho nhà Hán như thế nào, đã thấy nhà Trần đã dạy khôn cho bọn giặc Nguyên Mông như thế nào, đã thấy Lê Lợi, Nguyễn Trãi dạy khôn cho bọn giặc Minh như thế nào, và trong cận đại Thanh đã thấy dân tộc Việt Nam dạy khôn cho bọn thực dân như thế nào rồi chứ.

Thanh viết tiếp “bọn việt gian cọng sản phải chịu trách nhiệm trước toàn dân và lịch sử về việc nầy. Bọn chúng sẽ bị toàn dân xét xử”.

Thật là oai hùng ! ! ! Thưa Trần Thanh. Không lẽ Thanh không thấy Đảng Cọng Sản đang vô trách nhiệm với Dân Tộc với Tổ Quốc sao. Nếu họ có trách nhiêm thì họ phải giữ từng gang sông từng tấc đất của Tổ Tiên để lại chứ. Nếu họ có trách nhiệm thì họ phải giữ gìn tài nguyên của đất nước, phải giữ môi sinh và văn hoá dân tộc chứ. Vì vô trách nhiệm nên họ đã âm thầm đem dâng, đem bán một phần lãnh thổ và lãnh hải của cha ông. Vì vô trách nhiệm nên họ đã rước kẻ thù truyền kiếp vào dày xéo Tây nguyên. Thanh không thấy sao ?

Trần Thanh nói : “Bọn chúng sẽ bị toàn dân xét xử” . Đúng như thế, Thanh thấy bọn Pol Pot đang bị dân tộc Kampuchia xét xử. Nhưng trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu dân tộc có còn tồn tại đến ngày phán xét hay không, hay là Trần Thanh dài cổ đợi cho đến ngày phán xét thì Trần Thanh cùng dân tộc Việt Nam đã bị biến thành nô lệ, tổ quốc Việt Nam đã bị biến thành thuốc địa của bọn bành trướng Bắc Kinh rồi.

Trần Thanh à ! đừng trông chờ một thái độ trách nhiệm của Đảng Cọng Sản, đừng trông chờ ngày phán xét của toàn dân, mà hãy hành động ngay để chận đứng thái độ vô trách nhiệm của đảng Cọng Sản. Chính vì thế mà Hoà Thượng của chúng tôi đã ban hành Lời kêu gọi Biểu Tình Tại Gia, Bất Tuân Dân Sự. Lời kêu gọi ấy không đứng trên sự tính toán thành công hay thất bại, không đứng trên sự cân nhắc khả thi hay không khả thi. Nếu không thành công thì thành nhân như Ông Nguyễn Thái Học đã nói trước khi lên đoạn đầu đài. Và Nguyễn Thái Học đã không thành công, cuộc khởi nghĩa Yên bái đã bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, 13 nghĩa sĩ hy sinh vì Tổ quốc. Nhưng Nguyễn Thái Học đã thành nhân. Tấm gương của Ông đã thôi thúc toàn dân kháng chiến và giành thắng lợi cuối cùng cho Tổ Quốc Việt Nam.

Trần Thanh à ! Cuộc tranh đấu của toàn dân cho tự do, dân chủ và nhân quyền là một cuộc đấu tranh trường kỳ chứ không phải dừng lại ngang đây, Lời Kêu gọi của Hoà Thượng chúng tôi nếu không thành công trong nhất thời thì nó sẽ thành nhân trong tiến trình đấu tranh của dân tộc. Tôi xin trích một đoạn trong bài “Đoá Hồng Cho Một Nhà Sư” của Nguyễn Duy Thành :

“…Vì vậy, cần phải công tâm và thấu hiểu hết ý nghĩa sâu xa khi nhận xét về Lời kêu gọi đấu tranh của đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ. Trong nhãn quan bình thường khi nhận xét về kế hoạch đấu tranh của Ngài đưa ra, tất cả cho thấy tiến trình đấu tranh nằm dưới dạng của sự : TỊNH . Một sự tịnh tâm tịnh lòng của một vị chân tu. Nhưng không ! nếu có sự đồng tâm đồng sức thì kết quả của sự Tịnh kia sẽ biến thành một sự : ĐỘNG. Một cơn chấn động có thể phá sập một chế độ độc tài. Điều căn bản và cũng là một câu hỏi : Người Việt Nam Có Chịu Yêu Nước Không. Hay Chấp Nhận Lệ Thuộc Bắc Phương Một Lần Nữa. ”

Như vậy là đã quá rõ ràng, Lời Kêu Gọi là một hồi chuông thức tỉnh lòng yêu nước của người Việt Nam, ai yêu nước thì hưởng ứng, thì đứng lên. Ai không yêu nước thì cứ cam tâm làm nô lệ. Mọi sự cân nhắc thất bại hay thành công trong lúc nầy là thái độ của những người ích kỷ và cơ hội mà thôi.

Vì vậy “rất ngu” và “rất thối” xin được gắn vào nhận định của Trần Thanh.

MỤC TIÊU THỨ HAI :

“Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam công bố toàn bộ nội dung hai bản Hiệp ước Biên Giới trên đất liền và trên biển ký kết giữa Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa năm 1999 và 2000, kèm theo các bản đồ là bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hiệp ước, để toàn dân được biết sự toàn vẹn lãnh thổ mà tiền nhân đã đem xương máu gầy dựng”.

Trần Thanh nhận định : “Yêu sách hai : Cũng rất thối và rất ngu

“Đây là yêu sách ruồi bu. Có khác gì chúng ta yêu cầu một con đĩ tuột quần ra để chúng ta kiểm tra sự toàn vẹn của cái…..màng trinh của nó”.

Thanh à ! đã nói thì đừng ngượng miệng, đừng ngập ngừng. Sự so sánh tục tĩu, bệnh hoạn của Trần Thanh làm cho nhiều người phẫn nộ, nhưng tôi thì không. Tôi thấy khi Trần Thanh đem hai Hiệp Ước Biên Giới mà Cọng Sản đã lén lút ký với Trung Cọng so sánh với cái màng trinh của con đĩ thì thật là chính xác. Bởi vì cái màng trinh con đĩ mà không kiểm tra kỹ thì những kẻ chơi bời như Trần Thanh chắc chắn sẽ nhiễm HIV, sẽ kéo dài sự sống trong khổ nhục và đau đớn. Hiệp Ước Biên Giới cũng thế, nếu toàn dân không kiểm tra thì nó sẽ đưa cả dân tộc vào thân phận nô lệ khổ nhục và đau đớn chẳng khác gì căn bệnh thế kỷ HIV.

Vì vậy để tránh cho dân tộc khỏi rơi vào thân phận khổ nhục và đau đớn, Hoà Thượng chúng tôi đã yêu cầu nhà cầm quyền phải công bố nội dung cho toàn dân biết để toàn dân có ý thức phản kháng nhằm bảo vệ mình, bảo vệ Tổ Quốc. Nếu yêu nước thì chắc Trần Thanh cũng không muốn Nam Quan, Bản Giốc, Tục Lãm…cứ âm thầm rơi vào tay Trung cọng chứ ?

Trần Thanh nhận định : “Toàn dân có biết được sự toàn vẹn hay không toàn vẹn của lãnh thổ thì giải quyết được điều gì ? Thân phận nô lệ vẫn làm nô lệ”

Thưa Trần Thanh ! “ Quốc gia hưng vong , thất phu hữu trách” há Trần Thanh quên rồi sao. Người dân là chủ của đất nước, cán bộ là đầy tớ của nhân dân. Không lẽ đầy tớ cứ ăn cắp tài sản của chủ đem bán mà chủ cứ im lặng, cứ cúi đầu sao. Phải biết tài sản của mình bị mất gồm những gì, tuỳ theo nhiều ít mà định tội thằng ăn cắp chứ. Quốc gia đại sự cũng thế, toàn dân đều phải biết ai bán nước, ai cướp nước để phân biệt bạn thù. Toàn dân phải biết quốc gia lâm nguy như thế nào mới nung nấu được tinh thần chiến đấu của toàn dân chứ. Sức mạnh toàn dân sẽ giải quyết tất cả. Câu hỏi của Trần Thanh không những biểu lộ cái thấp hèn nô lệ mà còn biểu lộ sự khinh miệt sức mạnh toàn dân thì thử hỏi ai sẽ chiến đấu với Trần Thanh nếu Trần Thanh thật lòng yêu nước.

Một lần nữa “rất ngu” và “rất thối” xin được gắn vào nhận định của Trần Thanh.

MỤC TIÊU THỨ BA :

“Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam khẩn cấp triệu tập một đại hội đại biểu toàn dân bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia kinh tế, kỷ thuật cơ khí luyện kim, các chiến lược gia quân sự, cùng đại biểu các thành phần dân tộc bất phân chính kiến, tôn giáo trong và ngoài nước để cùng nhau thống nhất ý kiến chận đứng việc khai thác bôxit Tây Nguyên”.

Trần Thanh nhận định : “Yêu sách ba : Ngu xuẩn và tình nguyện đi làm chó săn, tay sai cho bọn việt gian cọng sản”

Thưa Trần Thanh ! Từ nhận định nêu trên , Thanh cho rằng :

- Hằng triệu người thất nghiệp đang nằm bẹp tại nhà , phải chăng họ bất tuân dân sự, biểu tình tại gia.

- Hàng chục ngàn gia đình những thằng tư bản đỏ đang cờ bạc, hút xách, trác táng quanh năm suốt tháng tại gia, phải chăng bọn chúng là những kẻ bất tuân dân sự, biểu tình tại gia.

- Hàng chục ngàn những thằng nghiện thuốc phiện, dân làng bẹp suốt ngày đêm nằm bên cạnh bàn đèn, phải chăng là bất tuân dân sự, biểu tình tại gia.

Thưa Trần Thanh ! Xin Trần Thanh hãy nghe tôi nhắc lại một lần nữa :

Biểu tình tại gia là một hành động phản kháng, nói lên sự bất bình của con người trước một áp bức. Đây là một hành động tự vệ mà pháp luật không thể can thiệp.

Ngược lại bọn ăn nhậu, cờ bạc, trác táng, hút xách là một hành động thoả mãn, truỵ lạc nói lên sự sa đoạ của con người trước những cám dỗ thấp hèn. Đây là một tệ nạn xã hội mà pháp luật sẵn sàng trừng trị.

Đơn giản như thế mà Thanh không phân biệt được thì làm sao mà Thanh dám cầm bút nhận định thời cuộc và phê phán lung tung.

Đến đây tôi bỏ qua những chi tiết vụn vặt để đi vào cốt lõi của mục tiêu thứ 3 :

Trần Thanh viết : “Cái kiểu đề nghị Một đại Hội Đại Biểu Toàn Dân Trong Và Ngoài Nước của Ông Quảng Độ nó bay mùi hoà hợp hoà giải …. Đây là một hình thức gián tiếp công nhận cái chính quyền ăn cướp của bọn giặc là hợp pháp…Kêu gọi hoà hợp hoà giải , cũng chỉ là một trò hề điếm đàng chính trị được lập lại dưới một hình thức khác (bô xit) : tất cả mọi tổ chức trong và ngoài nước phải tập hợp lại , đứng dưới lá cờ máu của việt gian cọng sản để chống ngoại xâm”.

Đây là vấn đề quan trọng nhất trong suốt quá trình lập luận của Ông vậy xin Ông hãy lắng nghe :

1/. Chúng ta phải khách quan để thấy rằng cho dù đảng cọng sản Việt Nam cai trị đất nước dưới hình thức nào (dù là ăn cướp) thì đó cũng là một chính quyền hợp pháp đối với quốc tế, không thể phủ nhận. Nó có chân trong Liên Hiệp Quốc, nó được nhiều quốc gia thiết lập bang giao, cho nên tự nó đã có tư cách pháp nhân. Dù có căm ghét nó cũng không nên nói bừa. Vậy thì một đảng phái, một tôn giáo, một đoàn thể, một cá nhân có đủ tư cách để triệu tập một đại hội toàn dân hay không ? Hoàn toàn không. Chỉ có chính quyền mới có đủ tư cách pháp nhân để triệu tập quốc dân đại hội.

Do đó, muốn có đại hội toàn dân thì phải tạo áp lực để chính quyền phải đứng ra triệu tập. Đó là một đòi hỏi chính đáng. Hành động nầy không thể đồng hoá với việc hoà hợp hoà giải với cọng sản Việt Nam như Trần Thanh nhận định.

2/. Nếu chính quyền đã chấp nhận triệu tập quốc dân đại hội có nghĩa là chính quyền đã khuất phục trước Lời Kêu Gọi của Hoà Thượng Viện Trưởng, đây là sự thụ động của chính quyền chứ không phải là sự chủ động của chính quyền. Do đó quốc dân đại hội không có nghĩa là đứng dưới lá cờ máu của cọng sản như Trần Thanh nhận định mà là toàn dân đứng dưới ngọn cờ chính nghĩa của dân tộc.

3/.Đã gọi là Đại Hội Toàn Dân thì Cọng Sản cũng chỉ là một thành phần của Đại Hội. Đại Hội sẽ tiếp thu ý kiến của Toàn Dân để đúc kết thành một Quyết Định Chung của Dân Tộc mà Cọng Sản phải chấp nhận, phải thi hành chứ không phải Đại Hội lắng nghe sách lược của Cọng Sản và thi hành sách lược của Cọng Sản như lập luận nhu nhược của Trần Thanh. Nếu chấp nhận sách lược của Cọng Sản thì Đại Hội làm gì nữa. Đây là một Hội Nghị Diên Hồng của Thế Kỷ 21 biểu hiện sức mạnh Toàn Dân trước hiểm hoạ xâm lược của Trung Cọng. Nó trái ngược hoàn toàn với nhận định Trần Thanh cho nên một lần nữa các “ mỹ từ ” “rất ngu” và “rất thối” xin được trả về cho tác giả.

Thưa Trần Thanh.

Tôi đã già, có thể làm anh của Trần Thanh được chứ. Nếu được thì xin Thanh hãy xem đây là lời khuyên nhủ chân thành, tuy có nặng lời một chút. Nếu Thanh không đồng tình thì tôi xin sẵn sàng đón nhận những gì tục tỉu nhất, bẩn thỉu nhất mà Thanh sử dụng, tôi sẽ mỉm cười vì tôi biết đó là vũ khí của kẻ cùng đường.

Thân ái.LÊ CÔNG CẦU

___________________________


Kính Thưa Anh Chị Em Huynh Trưởng.

Hôm nay 20.5.2009, Lời Kêu Gọi Bất Tuân Dân Sự, Biểu Tình Tại Gia đến nay đã đi qua 2/3 chặng đường nguy khó, nhưng nó không phải kết thúc cuối tháng 5 nầy, mà nó sẽ tồn tại trong lòng người dân Việt cho đến ngày quang phục đất nước. Với Giác Thư nầy tôi xin thay mặt Anh Chị Em Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử, những người con của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến tất cả những Tổ chức, Hội đoàn, Đảng phái, Tôn giáo, Cá nhân đã thể hiện tinh thần yêu nước qua sự hưởng ứng Lời Kêu Gọi của Hoà Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo ban hành ngày 29 tháng 3 năm 2009.

Trong nỗi vui buồn của người Phật tử trước hiện tình của Đạo Pháp và Dân Tộc, tôi xin được trích mấy câu thơ của Nguyễn Duy Thành gởi đến Anh Chị Em Huynh Trưởng để kỷ niệm một mùa Đản Sanh trong điêu linh và thống khổ của Dân Tộc Việt Nam :

Tháng 5 vùi đầu trong mùa thi
Khi ve kêu phượng nở
Tháng năm nhớ, thương Sài Gòn
Với bàng hoàng - trăn trở
Tháng 5 mùa hoa sen nở. Hoa vô ưu về.
Tháng 5 nầy đáng ghi cần nhớ :
“Nhớ đoá hoa hồng dâng tặng một nhà sư”

KÍNH CHÀO TINH TẤN
PL 2553 Giác Minh, Ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Sửu
Ngày 20 tháng 5 năm 2009(Ngày kết thúc Bất Tuân Dân Sựvà Biểu Tình Tại Gia ở Miền Trung)VỤ TRƯỞNGGia Đình Phật tử VụGia Đình Phật tử Việt NamNguyên Chánh LÊ CÔNG CẦU

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2009

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 18.5.2009

Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới đến Saigon vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ
Hòa thượng cảm ơn Ủy hội Hòa Kỳ yêu cầu đưa Việt Nam trở lại trong danh sách CPC và cảm ơn Phái đoàn Chính phủ Hoa Kỳ đòi hỏi phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của GHPGVNTN trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ở Genève nhân kỳ Kiểm điểm Thường kỳ Toàn diện nhân quyền Việt Nam


PARIS, ngày 18.5.2009 (PTTPGQT) - Phái đoàn Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới (US Commission on International Religious Freedom) đến Thanh Minh Thiền viện ở Saigon hôm thứ bảy 16.5 vấn an Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN). Phái đoàn gồm có ông Michael Cromartie (Phó Chủ Tịch Ủy Hội), ông David Dettoni (Giám Đốc Tác Vụ và Giao Tế), ông Scott Flipse (Trưởng Phòng Phân Tích Chính Trị) và bà Jane Blockage, đệ nhị Tham vụ Chính trị - Đại Sứ Quán Hoa Kỳ. Cuộc thăm viếng và trao đổi thân tình kéo dài từ 10 giờ rưởi sáng đến 12 giờ trưa.


Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới là một thiết chế độc lập ra đời sau khi đạo luật Tự do tôn giáo được thông qua tại Quốc hội Hoa Kỳ năm 1998, nhằm xem xét tình hình tôn giáo trong thế giới để đề xuất Quốc hội và chính phủ Hoa Kỳ có thái độ và biện pháp thù ứng với các quốc gia đàn áp tôn giáo. Năm 2004 Việt Nam Cộng sản bị đưa vào danh sách CPC là do sự đề xuất của Ủy hội Hoa Kỳ. Trong bản phúc trình năm nay công bố mới đây, Ủy hội Hoa Kỳ Bảo vệ Tự do Tôn giáo trên Thế giới lại cất lời đề nghị đưa Việt Nam trở lại trong “danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần quan tâm đặt biệt” (CPC) vì đã tiếp tục vi phạm quyền tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác”.


Đây là lần thứ hai Ủy hội Hoa Kỳ trở lại viếng thăm Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ để kiểm điểm tình tình hình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có biến chuyển gì khả quan không. Nhưng Hòa thượng khẳng định : “Từ cuộc gặp gỡ trước đây cho tới bây giờ, tôi không biết tình hình của các tôn giáo khác như thế nào, nhưng riêng đối với GHPGVNTN chúng tôi thì thực trạng vẫn như thế. Không có gì thay đổi”.


Trong cuộc điện đàm với ông Võ Văn Ái, Đại lão Hòa thượng cho biết nội dung cuộc trao đổi rất tích cực. Mặc dù đồn công an đối diện Thanh Minh Thiền viện được tăng cường số lượng công an canh gác, theo dõi, nhưng không gây khó khăn, cản trở việc thăm viếng của Phái đoàn Hoa Kỳ.


Ủy hội Hoa Kỳ hỏi thăm về tình hình GHPGVNTN, việc tang lễ của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và việc khai thác quặng bô xít ở Tây nguyên khiến Giáo hội lên tiếng. Hòa thượng Thích Quảng Độ cho Phái đoàn Hoa Kỳ biết Nhà nước cộng sản chẳng có cải thiện hay tiến bộ gì về chính sách tôn giáo. Có chăng chỉ là việc sách nhiễu tinh vi hơn trước. Hòa thượng dẫn các sự kiện sách nhiễu gần đây trong Mùa Phật Đản tại 21 Ban Đại diện GHPGVNTN ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Công an tung những thư nặc danh vu cáo GHPGVNTN và hàng giáo phẩm, quy kết Giáo hội bất hợp pháp gây hoang mang dư luận Phật tử, lại còn đến từng nhà Phật tử hăm dọa việc đi lễ Phật tại các chùa “phản động” thuộc GHPGVNTN sẽ mất công ăn việc làm, con cái sẽ bị mất trường học… chưa kể những nguy hại khác. Khiến cho Phật tử sống trong cảnh sợ hãi triền miên. Hòa thượng nói :


“Sự việc trầm trọng hơn trước, trước đây họ đàn áp công khai nhưng mấy năm nay thì họ đổi chính sách, họ đi đến từng nhà Phật tử một, như ở Miền Trung, ở Thừa Thiên-Huế, những nhà nào mà họ thấy đi viếng lễ chùa của GHPGVNTN thì họ đến tận nhà họ hù dọa rằng chùa đó là chùa phản động, chùa làm chính trị chống nhà nước đấy, thế là bất lợi lắm, không tốt cho công ăn việc làm của con cái, sự học hành của các cháu cũng bị ảnh hưởng. Họ hù dọa bằng cách đó. Đặc biệt ngay tuần lễ Phật Đản vừa rồi ở Huế thì họ đến hăm dọa và gọi chư Tăng ni trong Giáo Hội đến trụ sở công an làm việc.


“Đặc biệt là ở Quảng Nam họ có mời Thượng Tọa Thích Thanh Quang, Chánh Đại diện Giáo Hội tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng, đến phường làm việc. Họ mời ra làm việc về Phật Đản nhưng chẳng nói gì về Phật Đản. Họ đưa một bản văn lấy đâu trên mạng xuống đề cập về vấn đề Bất tuân dân sự - Biểu tình tại gia trong Tháng Năm, họ bắt Thượng tọa Thanh Quang ký thừa nhận bản văn đó là của Thượng tọa. Thượng tọa có nói rằng "Tôi có viết bản văn hưởng ứng Lời Kêu gọi của Giáo Hội, nhưng nội dung này không là bản văn của tôi với nội dung hoàn toàn khác. Tôi không thể ký được." Vậy mà họ cứ nhất định bắt buộc Thượng Tọa Thanh Quang phải ký, Thượng Tọa không chịu ký, thì họ bắt nhốt Thượng Tọa trong một căn phòng tại phường. Thế là mấy anh huynh trưởng Gia Đình Phật tử thấy lâu quá Thượng Tọa không về nên sốt ruột mới ra cơ quan phường và thấy tình hình như thế. Các huynh trưởng vào phường nói với họ là "Nếu các vị không thả Thượng Tọa chúng tôi ra thì chúng tôi chết ngay tại đây". Lúc bấy giờ họ sợ nên họ thả Thượng Tọa về. Thượng Tọa năm nay đã ngoài bảy mươi tuổi mà bị họ nắm tay vặn kéo nên hiện nay tay của Thượng Tọa hãy còn rất đau. Còn nói chung các nơi khác của Giáo Hội thì không một nơi nào được yên thân với họ”.


“Tôi nói với Ủy hội Hoa Kỳ rằng tình hình Giáo Hội chúng tôi hiện giờ là như thế, chừng nào mà còn chế độ cộng sản thì chừng ấy chúng tôi còn phải chịu đựng, không hy vọng gì có sự thay đổi, trừ ra khi có sự thay đổi chính trị toàn bộ. Còn tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hiện nay là Giáo hội Phật giáo Nhà nước, Giáo hội Phật giáo của Đảng, của Cộng sản. Các sư làm việc trong giáo hội này là đảng viên cộng sản đấy. Mưu đồ của họ trong hiện tại cũng như trong tương lai là như thế, họ cố tình tiêu diệt giáo hội chúng tôi chứ thực sự họ không cho chúng tôi hoạt động trở lại đâu. Chừng nào mà quốc tế còn quan tâm, còn gây sức ép thì họ còn để đó, nhưng họ vẫn tiếp tục đàn áp, tùy thời mà có lúc nặng lúc nhẹ, thế thôi, chưa có cái gì thay đổi cả”.


Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ngỏ lời “Cảm ơn Ủy hội Hòa Kỳ đã lên tiếng yêu cầu Hoa Kỳ đưa Việt Nam trở lại trong “danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần quan tâm đặc biệt” (CPC). Hòa thượng cũng nhờ Ủy hội chuyển giúp lời “Cảm ơn Phái đoàn chính phủ Hoa Kỳ vừa rồi trước Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ở Geneva trong cuộc Thẩm định Thường kỳ và Toàn diện về vấn đề nhân quyền của mỗi nước, thì duy nhất đại diện phái đoàn Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam Cộng sản phải khôi phục quyền sinh hoạt pháp lý đầy đủ cho GHPGVNTN. Tôi thấy đề nghị đó là đề nghị rất tích cực”.


Về tang lễ đức cố Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang hồi tháng 7 năm ngoái, 2008, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ cho biết nhà cầm quyền đã bức tử Đức cố Tăng thống, không cho phép Giáo hội đưa Ngài vào Saigon chữa trị ở các bệnh viện có đầy đủ dụng cụ y khoa và thầy thuốc chuyên môn. Ngài bị quản chế ngay tại bệnh viện Quy Nhơn. Làm khó dễ không cho đưa Ngài về Tu viện Nguyên Thiều những ngày cuối, ép buộc người cháu họ xa của Ngài viết đơn phản đối sự âu lo hậu sự của GHPGVNTN. Nhưng Cộng sản đã không thành công vận động người cháu này. Khi tình hình vô phương cứu chữa mới để cho đức cố Đệ tứ Tăng thống về lại Tu viện Nguyên Thiều một ngày trước khi Ngài viên tịch.


Về vấn đề phản đối khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên. Đáp câu hỏi của Ủy hội Hoa Kỳ về nguyên do gì khiến GHPGVNTN quan tâm tới việc khai thác quặng bauxite ? Có liên hệ gì với vấn đề tự do tôn giáo hay không ? Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trả lời rằng :


“Tôi quan tâm tới vấn đề này và có lời kêu gọi Bất tuân dân sự, một tháng Biểu tình Tại gia. Lý do rất đơn giản bởi vì Phật Giáo Việt Nam khác với Phật Giáo các nước ở Á Châu, đặc biệt là vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam nói chung và của GHPGVNTN nói riêng, từ bao đời gắn liền với sự thịnh suy của dân tộc Việt Nam. Mấy ngàn năm nay nó vẫn như thế. Trung Quốc vào khai thác bauxite ở Tây Nguyên, mà Tây Nguyên được coi như Nóc nhà của Đông Dương, tức ba nước Việt - Miên – Lào. Các nhà quân sự coi đó là khu vực rất quan trọng về vấn đề an ninh quốc gia. Ai nắm được, làm chủ được nóc nhà đó là làm chủ được toàn thể Đông Dương.


“Tháng Tư 1975, truớc khi Cộng sản tràn vào toàn Miền Nam thì ông Nguyễn Văn Thiệu đã rút quân khỏi Tây Nguyên trước, quân đội Cộng sản nhân đó mà chiếm lấy Tây Nguyên và tràn về Sài Gòn chỉ trong vòng mấy tuần lễ thôi. Đấy là kinh nghiệm gần đây nhất.


“Tóm lại, bây giờ nếu Tây Nguyên nói riêng và cả Việt Nam nói chung mất về tay Trung Quốc thì ngay bản thân chúng tôi, Giáo hội chúng tôi, và toàn thể dân tộc chúng tôi trở thành nô lệ cho Trung Quốc. Mà đã sống cuộc đời nô lệ thì còn gì mà tự do nữa đâu ! Tự do, Nhân quyền còn không có, lấy đâu cho tự do tôn giáo ?! Nói xa hơn nữa thì cộng sản Trung Quốc cũng vô thần, vô tôn giáo. Cho nên không những chúng tôi mất nước mà còn mất cả tôn giáo nữa. Tôn giáo còn không có, thì lấy đâu cho tự do tôn giáo ?!”

KHÔNG TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN SẼ MẤT LUÔN CHỦ QUYỀN QUỐC GIA

Một chế độ độc đảng, độc tài, độc ác toàn trị cộng sản mà phải trình diện trước diễn đàn quốc tế để biện giải về những thành tích “tôn trọng nhân quyền” của mình thì đúng là “bắt khỉ diễn trò” cho thiên hạ diễu chơi. Việtnam hiện nay đang sống dưới chế độ độc đảng toàn trị, cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, tôn giáo, truyền thông và các đoàn thể xã hội đều bị đặt dưới sự lãnh đạo độc đoán và chế độ “xin cho” của một đảng Cộngsản độc quyền tài phán. Toàn dân bị kiểm soát nghiêm ngặt bằng biện pháp “hộ khẩu” và hệ thống “công an trị” do đảng điều khiển khít khao. Mọi quyết sách nội trị, ngoại giao của nhà nước đều do 15 ủy viên Bộ Chính Trị đơn phương định đoạt. Mà chính họ lại không được dân lựa chọn bầu lên. Kể cả cái Điều 4 của bản Hiến Pháp 1992 dành cho cộng đảng toàn quyền lãnh đạo quốc gia, thì công dân cũng không được có ý kiến. Ngay việc bầu người đại diện của mình vào Quốc Hội cũng phải do đảng tuyển lựa trước mới để cho dân bầu sau. Như vậy ở Việtnam không có Dân Quyền.
Một chế độ được thành lập mà Quyền Lực Quốc Gia không dựa trên Ý Chí của Toàn Dân thì đó chỉ là chế độ Quân Chủ Phong Kiến lạc hậu. Hầu hết các nước Dân Chủ Tự Do trên Thế Giới đều đã phải kinh qua giai đoạn ấy. Bởi thế không thể cho rằng bản chất nhân quyền ở mỗi nước mỗi khác, vì vấn đề văn hóa, hay nếp sống khác nhau, mà phải nói chỉ vì bị sống trong chế độ còn lạc hậu, nên ở đó chính quyền mới không biết tôn trọng nhân quyền mà thôi. Còn bất cứ chế độ nào đã tiến lên mức Tự Do Dân Chủ đều phải tuyệt đối tôn trọng Nhân Quyền. Vì không có Con Người thì không có Quốc Gia Dân Tộc, không có Xã Hội của Con Người. Một chế độ không tôn trọng Nhân Quyền là chế độ không có Dân Quyền, xã hội không thể có tự do, con người bị biến thành công cụ của nhà nước do một người, hay một đảng độc quyền cai trị. Bởi vậy các nước Dân Chủ trong Hội Đồng Nhân Quyền mới đồng thanh kết án chế độ Cộngsản Việtnam là vi phạm nhân quyền. Riêng các nước Độc Tài, Phong Kiến lạc hậu mới ủng hộ bản báo cáo của chính phủ Hànội.

Khiến cho thứ trưởng ngoại giao Việtcộng, Phạm Bình Minh, trưởng đoàn Việtnam, tại phiên họp 08/05/09 của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ phải ú ớ, đành tự thú nhận: “Việtnam hiện nay vẫn còn những bất cập, khó khăn tồn tại cần giải quyết, trong hệ thống pháp luật còn thiếu đồng bộ, có chỗ chồng chéo mâu thuẫn, chưa theo kịp thực tiễn, dẫn đến khó khăn, thậm chí hiểu sai, làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính hợp hiến, tính khả thi và minh bạch trong quá trình đảm bảo quyền con người của một số người điều hành tại địa phương, hoặc chưa quen thuộc với các điều luật trong các công ước quốc tế mà Việtnam đã ký kết, cũng như thiếu hiểu biết về chính sách luật pháp của nhà nước đưa tới việc làm sai trái”. Tuy đã nhận khuyết điểm, rồi đổ thừa cho địa phương làm lỗi, nhưng trưởng đoàn Việtcộng cũng cố gân cổ lên để bác bỏ những lời tố cáo cho rằng, Việtnam đàn áp những người bất đồng chính kiến, ngược đãi các sắc tộc dân thiểu số, không tôn trọng tự do tôn giáo, và bóp nghẹt các quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ tư tưởng, và tự do nghiệp đoàn…

Thông cáo báo chí của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ ngày 08/05/09 đã đưa ra các khuyến nghị, Việtnam nên giảm bớt sử dụng luật lệ về an ninh quốc gia để hạn chế quyền thảo luận của công chúng về Dân Chủ Đa Đảng và chỉ trích chính phủ. “…khuyến khích Việtnam tiếp tục nỗ lực bảo đảm quyền tự do tôn giáo, thừa nhận Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và để cho giáo hội này được hoạt động độc lập với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh), để cho dân chúng được bày tỏ ý kiến về hệ thống chính trị, và trả tự do cho các tù nhân lương tâm như linh mục Nguyễn Văn Lý, và hai luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân…”. Thực ra về mặt tuyên truyền và uy tín quốc tế, thì nhà cầm quyền Hànội dịp này đã bị mất mặt thê thảm. Nhưng rồi đây chứng nào tật ấy, Việtcộng vẫn cứ cố duy trì chế độ Độc Tài Tham Nhũng, không dựa vào dân, mà dựa vào các thế lực quốc tế để tồn tại, như từ trước tới nay.

Chính vì chế độ độc tài cộng sản không dựa vào dân, mà chỉ dựa vào ngoại bang, nên trước đây đã ngoan ngoãn nằm trong hệ thống cộng sản của đàn anh Liênxô, Trungcộng, nay thì bị Đế Quốc Đại Hán khống chế triệt để. Khởi đi từ năm 1991 do nhóm lãnh đạo Hànội: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, thân hành sang Tầu thần phục nhóm bành trướng Bắckinh: Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân. Lý Bằng. Tiếp theo là Lê Khả Phiêu phải theo lệnh Bắckinh từ chối ký Hiệp Ước Thương Mai với Mỹ năm 1999. Cùng năm đó, Phiêu phải hứa cắt đất, và năm 2000 dâng biển cho Tầu. Từ đấy Tầu ngang nhiên nhận 2 quần đảo Hoàngsa, Trườngsa là của chúng. Đến tháng 12/2007, nơi đó Tầu đặt là thành phố Tamsa thuộc tỉnh Hảinam. Tháng 05/2008, Bắckinh kêu Nông Đức Mạnh sang, bắt ký cam kết hợp tác toàn diện giữa 2 đảng, 2 nước. Tháng 10/2008, Nguyễn Tấn Dũng được gọi sang Tầu để ký kết cho Trungcộng vào khai thác tài nguyên của Việtnam. Chính vì vậy mà Trungcộng được độc quyền đem dân, quân sang khai thác bauxite ở vùng Tây Nguyên Việtnam. Tổng giám đốc nhà máy sản xuất Alumin Nhân Cơ, tỉnh Đắcnông thừa nhận: “Chính phủ đã cho không nhà thầu Trungquốc dự án khai thác bauxite Tây Nguyên chứ không có đấu thầu”. Cho nên, dù phong trào chống việc khai thác bauxite của toàn quốc lên rất cao, mà nhóm cầm đầu Hànội cũng không dám trái ý quan thầy của chúng, để chấm dứt. Vì đây là kế hoạch “tàm thực” Việtnam của chính sách Đế Quốc Đại Hán, mà bước chính là chiếm lấy vùng chiến lược cao nguyên của Việtnam. Vì chỉ có chiếm được nơi đây, Trung cộng mới làm chủ được Đôngdương và toàn vùng Đông Nam Á, để hy vọng ngang tầm siêu cường với Hoakỳ.

Để tránh bị lịch sử gọi là những con “Chó Bắc Kinh” CBK, nhóm cầm đầu Hànội đã phải liên kết với Malaysia, để ngày 06/05/09 trình hồ sơ thềm lục điạ chung của 2 nước với LHQ. Rồi ngày 07/05/09 một mình Việtnam nộp hồ sơ để xác định thềm lục điạ Việtnam, bao gồm 2 quần đảo Hoàngsa, Trườngsa thuộc chủ quyền Việtnam. Lẽ đương nhiên đều bị Trungcộng quyết liệt phản đối. Theo quy định về thủ tục của CLCS, trong trường hợp có tranh chấp về lãnh hải, thì ủy ban sẽ không xét và phê chuẩn hồ sơ của bất cứ bên liên quan nào trong vụ tranh chấp. Nghĩa là vấn đề Biển Đông vẫn giữ nguyên trạng, vừa là hải phận quốc tế, vừa là phần mỗi nước tự nhận. Kẻ nào có thực lực hải quân thì có thế mạnh trong vùng. Cho nên Trungcộng tăng cường hải quân, các nước trong vùng phải chạy theo. Hoakỳ là “chúa đại dương” cũng phải tăng cường hiện diện, khiến nơi đây luôn luôn là vùng nguy biến rình rập. Riêng với Việtnam thì chừng nào chế độ chưa phải là của dân. Chính quyền chưa do dân bầu chọn, chưa lấy dân làm gốc, chưa nhận dân làm chủ, chưa tôn trọng nhân quyền, chưa dân chủ hóa chế độ thì chủ quyền quốc gia vẫn còn nằm trong tay ngoại bang chi phối.

Little Saigonngày 12/05/2009.
LÝ ĐẠI NGUYÊN

Thứ Ba, 12 tháng 5, 2009

BẢN TIN ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN PL.2553 /2009

VĂN PHÒNG II VIỆN HÓA ĐẠO
GHPGVNTN HẢI NGOẠI TẠI HOA KỲ
CHÙA ĐIỀU NGỰ



Vì đại nguyện cứu độ muôn loài nơi trần thế, Bậc Đại Giác Thế Tôn đã thị hiện đản sanh. Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự đã long trọng tổ chức Đại Lễ Phật Đản Pl.2553 vào lúc 1:30 pm ngày Chủ nhật 10.5.2009 nhằm ngày 16 tháng 4 năm Kỷ Sửu. Mặc dầu Trời nắng gắt nhưng đến 1 giờ trưa Đồng bào Phật Tử và Quan khách đã vân tập về Chùa đông đảo để viếng cảnh và lễ Phật trong Vườn Lâm Ty Ni với cây cảnh xanh tươi, nước phun mát mẽ qua hoạt cảnh Phật giáng trần với bảy bước hoa sen xinh đẹp.Đúng 1giờ 30 hội trường đã đông đảo,Pháp Sư Thích Giác Đức đăng đàn giảng một thời Pháp ngắn gọn. Sau đó là ba hồi chuông trống bát nhã cung nghinh Xá Lợi Phật, Phật Đản sanh và cung thỉnh Chư Tôn Đức Giáo Phẩm quang lâm lễ Đài.
Buổi lễ hôm nay được sự chúng minh của Đức Phó Tăng Thống Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác, Đại Lão Hoà Thượng Phó Viện Trưởng Viện Hoá Đạo Thích Chánh Lạc, Pháp Sư Niên Trưởng Thích Giác Đức Tổng Ủy viên Kế Hoạch cùng đông đảo Chư Tôn Hoà Thượng Thượng Toạ Đại Đức Tăng Ni trong Hội Đồng Điều hành Văn Phòng II Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ và hơn 150 Chư Tăng các Giáo Hội Nhật Bản, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Thái Lan, Tây Tạng, Miến Điện,Đài Loan, Tích Lan, Lào, Cam Bốt và Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế giới tham dự.

Phần quan khách có Ông Loucorea Nghị sĩ Tiểu bang California, Dân Biểu Tiểu Bang Trần Thái Văn, Phó Thị Trưởng Thành phố Westminster Tạ Đức Trí, Ông Contres Ủy viên Giáo dục Học Khu Westminster và nhiều vị khác.

Về Quan khách Việt Nam có Quí Vị đại diện các Tôn Giáo bạn như Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo v.v.. Quí Vị Cựu Tướng Lãnh, Sĩ quan cao cấp, Trung Cấp, Quí Vị Cựu Nghị sĩ, Dân Biểu, Nhân sĩ Trí thức, các Tổ chức Đòan thể, Chính Đảng, Các Cơ quan truyền thông báo chí và đồng bào Phật Tử các giới đông nghẹt cả hội trường . Sau nghi thức thường lệ, Thượng Tọa Thích Viên Lý Trưởng ban Tổ chức đã lên máy vi âm đọc diễn văn khai mạc, tiếp theo là Đạo từ của Đức Phó Tăng Thống Thích Hộ Giác , sau đó Hoà Thượng Thích Chánh Lạc tuyên đọc Thông Điệp Phật Đản 2553 của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, kế tiếp là phần phát biểu của Ông Đại Sứ Phó Chủ Tịch Hội Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới , phát biểu của Thượng nghị sĩ Tiểu bang Loucorea và Dân biểu Tiểu bang Trần thái Văn cùng có nội dung chào mừng Đại Lễ và nổ lực yểm trợ công cuộc đấu tranh giải trừ Pháp nạn và Quốc nạn mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất do Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo. Thượng nghị sĩ Loucorea cũng đã đai diện Thượng Viện Tiểu bang California trao tặng văn phòng II Viện Hoá Đạo một bằng khen ngợi sự đóng góp về mặt tôn giáo cho Xã Hội. Sau đó Phó Thị Trưởng Tạ Đức Trí thay mặt Hội Đồng Thành phố Westminster lên phát biểu và đã trao tặng cho Thượng Tọa Trưởng Ban Tổ chức một bằng tưởng lục khen ngợi Chùa Điều Ngự đã góp phần phát triển văn hoá trong thành phố Westminster. Cũng cần nên biết trước ngày cử hành Đại Lễ từ Văn phòng Tổng Thống OBAMA có gọi điện thoại đến Văn Phòng II Viện Hoá Đạo cho biết vì đang bận đối phó với tình trạng kinh tế suy thoái nên Tổng Thống chưa thể gởi thông điệp Phật Đản đến Đại lễ của Giáo Hội , hy vọng năm tới chúng ta sẽ có thông điệp của Tổng Thống Hoa Kỳ. Tiếp theo chương trình là phần cung thỉnh 15 Chư Tôn Đức Giáo Phẩm Việt Nam và Ngoại Quốc cùng mời 15 vị Quan Khách Chính quyền, Dân Cử và Nhân Sĩ Phật Giáo mỗi vị thắp một ngọn nến Chánh Pháp và tự cắm lên hai giàn nến để cầu nguyện cho Thế giới hoà bình, lảnh thổ lãnh hải Việt Nam được bảo tồn nguyên vẹn.

Sau đó nghi thức Đản sanh đã diễn ra thật trang nghiêm cả hai truyền thống Nam, Bắc Tông cùng thực hiện lễ Mộc Dục (tắm Phật) và lễ Phóng sanh.
Hôm nay cũng là ngày lễ Mẹ nên Đoàn Phật Tử Chùa Diệu Pháp cùng Ban Tổ chức đã thân kính trao đến năm Cụ Bà Cao niên nhất có tuổi thọ từ 87,86,85,84,83 mỗi Cụ một bó hoa tươi thắm với lời cầu chúc an lạc và trường thọ. Đồng thời trao tận tay 1000 bông hoa hồng tươi đẹp đến 1000 hiền mẫu hiện diện với lời cầu chúc An vui, hạnh phúc và may mắn. Hội trường trở nên vui nhộn đầy tình đạo vị giữa những người con Phật cùng hướng về những Bà Mẹ Việt Nam nhiều thế hệ luôn luôn đầy tình thương bao la.
Tiếp theo Bình Luận Gia Lý Đại Nguyên, Giáo Sư Lưu Trung Khảo đã tuần tự lên phát biểu giới thiệu tác phẩm CỘI TÙNG TRƯỚC GIÓ, vinh danh Đại Lão Hoà Thượng Thích Quảng Độ với tiếng vỗ tay vang dậy cả hội trường. Hôị trường cũng đã vỗ tay nồng nhiệt khi người điều khiển chương trình loan báo tin vui Thượng Tọa Thích Viên Lý sẽ nhận Bằng Tiến Sĩ Triết học về Tôn Giáo vào thứ bảy tuần tới.
Tiếp theo,Thượng Tọa Thích Viên Huy Phó Ban Tổ chức về kế hoạch đã lên phát biểu lời Cảm tạ với sự hiện diện cuả toàn Ban Tổ chức.
Sau cùng là chương trình văn nghệ của Gia Đình Phật Tử Chùa Điều Ngự phụ diển mừng ngày Đản sanh kết hợp xen kẻ là xổ số trong khi mọi người được Ban Tổ Chúc trao mời tận tay một phần ẩm thực chiều.
Cùng thời điểm này trong Chánh Điện Thượng Toạ Tổng Thư Ký cùng sáu Chư Tôn Đức trang nghiêm cử hành lễ Thọ giới Qui Y cho 50 giới tử đã ghi danh từ một tuần trước đó, ai nấy hân hoan với phát nguyện từ nay quyết giữ gìn Tam Qui Ngũ giới và an tâm vui mừng với Pháp danh vừa được ban của mình . Buổi Văn nghệ kết thúc đúng 6 giờ chiều sau khi đại diện Ban Tổ Chức một lần nữa ngõ lời cảm ơn tất cả Quí vị đã ở lại đến giờ chót và cám ơn văn nghệ sĩ cùng các Cháu trong đội Lân và ca vũ Gia đình Phật Tử Chùa Điều Ngự đã cùng nhau tạo nên chương trình phụ diễn mừng Phật Đản thành công tốt đẹp.
Ra về mọi người hân hoan vui cười và từng nhóm kháo với nhau hôm nay quá đông, từ vườn Lâm Tỳ Ny vào đến Chánh Điện, từ Khuôn viên Phật Bà cho đến khu ẩm thực và nhất là trong Hội trường Lễ Đài Chính,nơi nào cũng đông nghẹt vậy thì khoảng bao nhiêu người ?
nhóm thì nói 3 ngàn, nhóm thì phân tách trong hội trường vừa ngồi, và đứng chật khoảng 3000, còn trong Chánh Điện và các khu vực khác cũng đông nghẹt do đó mà ước khoảng 5000.
Riêng người viết biết được lượng ghế thuê và cơ hữu của Chùa đã ngoài 4000, người Lễ bái trong Chánh Điện và đi lại trong các khu vực thì lúc cao điểm (sau 2 giờ chiều) số người đến Chùa khoảng 5000 người , không kể lượt người viếng cảnh lễ Phật vào ra suốt ngày và theo những người giữ trật tự bên ngoài cho biết thì nếu có nhiều địa điểm đậu xe cũng như hội trường hành lễ rộng lớn hơn thì số lượng đồng hương Phật Tử tham dự sẽ đông hơn nữa. Thực ra con số không là gì cả mà quan trọng là tấm lòng và chí hướng. Biết để vui với nhau và để cùng cố gắng, cùng cảm thông, để cùng ước mong những ngày lễ hội sau này tránh được nhửng khuyết điểm ngoài ý muốn, mỗi ngày một cải tiến hoàn thiện, hầu đáp ứng lòng mong ước tốt đẹp của mọi người con Phật luôn hướng về Văn Phòng II Viện Hoá Đạo/ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ/Chùa Điều Ngự.

Westminster, thứ hai 11/5/2009
Chơn Diệu.

Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2009

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNG THỐNG

Thanh Minh Thiền viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP. Sài gòn----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch 2553 TĐPĐ/VTT


THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN PL. 2553
của Đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ,Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN.


Kính gửi:
- Chư tôn Trưởng Lão Hội Đồng Lưỡng Viện, chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng ni.
- Cùng toàn thể Phật tử các giới trong và ngoài nước.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch chư Tôn Đại đức,
Thưa toàn thể Đồng bào Phật tử,

Hôm nay là ngày trăng tròn tháng Vesakha Ấn Độ, nhằm ngày Rằm tháng Tư Âm lịch, ngày đức Phật đản sanh lần thứ 2632. Nhân dịp nầy, thay mặt chư Tôn đức Trưởng lão Hội Đồng Lưỡng Viện, tôi trân trọng kính gửi đến chư Tôn Hoà Thượng, chư Thượng Toạ, Đại Đức, Tăng Ni trong và ngoài nước lời chúc mừng nồng nhiệt và bày tỏ niềm tin trong sáng đối với Chánh pháp và Dân tộc, kiên trì sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh, hàng phục ma vương để thành tựu sứ mệnh Như Lai sứ giả.

Nhân dịp nầy, tôi gửi đến toàn thể nam nữ Phật tử Cư sĩ tại gia, các vị Nhân sĩ, Trí thức, Văn nghệ sĩ và Đồng bào các giới trong và ngoài nước tâm niệm tuỳ hỷ công đức, tán dương nỗ lực tinh tấn tu học, thể hiện đức tính Kham nhẫn Vô uý của đức Thế Tôn ngay giữa dòng đời dẫy đầy ma chướng, vô minh, và bạo ngược.

Phật Đản năm nay, vắng bóng đức Cố Đệ tứ Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) là nỗi cảm thương nhỏ lệ khôn nguôi của Tăng ni Phật tử Việt Nam ! Tôi xin tất cả chúng ta, trong ngày Phật Đản thiêng liêng, hãy lắng đọng tâm tư, dành một phút mặc niệm hướng về Bảo tháp, vọng bái Giác linh đức Cố Đệ tứ Tăng Thống; cầu mong Giác linh Ngài hoá thân hiện diện trong mọi sinh hoạt Giáo Hội, trong tâm khảm chúng ta và giúp chúng ta có đủ nghị lực vượt qua mọi trở ngại để hoàn thành công cuộc vận động phục hoạt Giáo Hội.

Kỷ niệm Phật Đản, chúng ta còn tưởng nhớ và tri ân chư Thánh Tử Đạo, Cố Hoà Thượng Thích Thiện Minh và chư Tăng Ni Phật Tử tiền bối đã nằm xuống, đem xương máu gìn giữ sự sống còn của chúng ta ngày nay.

Kính thưa quí liệt vị!

Năm nay, mùa Phật Đản lại về, Giáo Hội chúng ta vẫn còn phải gánh chịu những đàn áp khắc nghiệt. Tôi và một số thành viên lãnh đạo Giáo Hội trong hai Viện, vẫn còn bị quản chế, canh giữ nghiêm ngặt, đi lại khó khăn. 21 Ban Đại Diện Giáo Hội, Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật tử Việt Nam, cũng cùng chung số phận, trấn áp, ngăn cấm. Nhà cầm quyền Việt Nam vẫn thường xuyên cáo buộc GHPGVNTN, các Tôn giáo khác và các phong trào đòi hỏi dân chủ, nhân quyền, tự do Tôn giáo, là phản động, tay sai của các thế lực thù địch, cần xoá bỏ.

Mặc dầu vậy, bằng đức tin kiên cố, chúng ta tin tưởng chư Phật, chư Tổ, chư Bồ Tát từ lòng đất xuất hiện đứng lên - tùng địa dũng xuất - , Thiên Long Bát Bộ, Hộ Pháp Thiện Thần và hồn thiêng sông núi... sẽ độ trì ban cho chúng ta khả năng chuyển hoá mọi khó khăn thành thuận duyên, tạo nên một Mùa Phật Đản toả sáng niềm tin bất hoại vào Chánh pháp và khơi động ý thức dân tộc cho toàn dân Việt Nam.

Phật giáo có mặt tại quê hương Việt Nam đã hơn hai nghìn năm lịch sử truyền thừa và phát triển, mà GHPVNTN là biểu tượng lịch sử truyền thừa với mục tiêu duy nhất tạo tác an lạc, hạnh phúc đích thực cho dân tộc. Trong quá trình lịch sử dài lâu, giáo lý đức Phật đã thấm sâu, in đậm vào đời sống tâm linh dân tộc, gắn bó cùng dân tộc qua mọi thăng trầm vinh nhục của tổ quốc. Do đó, Đạo pháp và Dân tộc Việt Nam đã trở thành hai yếu tố bất khả phân của một Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Vận mệnh của dân tộc Việt Nam như thế nào thì vận mệnh của Phật giáo Việt Nam như thế ấy và ngược lại.

Tinh thần bao dung, giáo lý Từ bi, Trí tuệ và Hùng lực của Phật giáo đã từng tô bồi, giúp đỡ cho các vương triều Đinh, Lê, Lý, Trần dựng nước, giữ nước và đánh đuổi ngoại xâm bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ; không để mất bất cứ một tấc đất tấc biển nào. Vua Lê Thánh Tông của 600 năm trước đã từng nhắc nhở thần dân : “Ta phải giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông ! » do Tiền nhân để lại !

Ngày nay chúng ta nghĩ sao, khi hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang rơi vào tay Trung Quốc ?

Không những thế mà nguy cơ mất nước đang rình rập thách đố quê hương, ở vùng biên giới và vùng Tây nguyên nội địa, nơi mà nhà cầm quyền Hà Nội, bất chấp dư luận cảnh báo, đã để cho hàng ngàn công nhân Trung Quốc đến sinh cơ lập nghiệp khai thác quặng bô-xít. Liên quan tới nguy biến này, ngày 29-3-2009, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN, tôi đã ra Lời Kêu gọi toàn dân Bất tuân dân sự và thực hiện cuộc Biểu tình tại gia trong suốt tháng 5 : Nông dân không ra Đồng, Công nhân không đến Xưởng, Thương gia, Tiểu thương không đến Chợ, Học sinh, Sinh viên không đến Trường trong suốt tháng 5. Cuộc Biểu tình này chia làm 3 phần:

Phần 1: Từ ngày 01 - 5 đến ngày 10 - 5 năm 2009 dành cho đồng bào miền Bắc.
Phần 2: Từ ngày 11 - 5 đến ngày 20 - 5 năm 2009 dành cho đồng bào miền Trung.
Phần 3: Từ ngày 21 - 5 đến ngày 31 - 5 năm 2009 dành cho đồng bào miền Nam.
(Xem toàn văn Lời Kêu Gọi “Một tháng Bất tuân dân sự - Biểu tình tại gia” công bố ngày 29 -3 – 2009).

Kính thưa quí liệt vị!

Nhân mùa Phật Đản năm nay, tôi thấy cần tiếp tục khẳng định rằng, GHPGVNTN, trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau cũng vậy, không tranh chấp với bất cứ quyền bính thế tục nào, hay bất cứ ai, mà lịch sử từng chứng kiến qua các thời kỳ Phật giáo cực thịnh. GHPGVNTN trước sau chỉ là mối truyền thừa sự nghiệp Giác ngộ và Giải thoát của chư Phật và liệt vị Tổ sư các thời đại; Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam là sứ giả Như Lai, làm việc của Như Lai cho lý tưởng Từ bi, Trí tuệ, Đại hùng Đại lực của Đức Thế Tôn trên dải đất Việt Nam. GHPGVNTN chưa hề đem thân làm kẻ thừa sai cho bất cứ thế lực ngoại lai hay đảng phái chính trị thế tục nào.

Đất nước Việt Nam ngày nay, tuy còn nghèo nàn lạc hậu, nhưng tệ nạn xã hội hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống, đạo đức suy thoái, nhân tâm ly tán. Tham nhũng, hối lộ, buôn người, buôn ma tuý, đầu độc trẻ thơ vào con đường tội lỗi... những hoạt động nầy đang được bao che, đùm bọc trong vòng tay của tập đoàn phi nhân, đang kết nối với mạng lưới tội ác toàn cầu. Đây là thảm hoạ chưa từng có trên đất nước, là nguy cơ làm băng hoại giá trị tinh thần truyền thống, là trạng thái vong bản và nô lệ của Dân tộc.

Trong khi đó, tình đoàn kết toàn dân mỗi ngày một phai nhạt. Nạn quan liêu cửa quyền lan tràn khắp chốn, đời sống dân sinh ngày càng đói rách cơ hàn, niềm tin vào vai trò người quản lý đất nước ngày càng mất mát, bất khoan dung Tôn giáo ngày một nghiêm trọng, và mọi tự do cơ bản đều bị tiêu hủy !...

Từ thảm trạng đó, nhân Đại lễ Phật Đản năm nay, tôi có đôi điều tâm huyết sau đây gửi đến chư liệt vị :

Đối với chư Tôn Đại Đức Tăng Ni và Phật tử, tôi xin khuyến thỉnh : Càng gặp chướng duyên, chúng ta càng trưởng thành trong tinh thần “Giữ chí phụng đạo, đạo ấy cao sâu”. Càng gặp gian nan, chúng ta càng thể hiện lời Phật dạy: “Hãy lấy ma quân làm đạo bạn, lấy nghịch cảnh làm phương tiện thành tựu sự nghiệp lợi sanh, xem ân sủng như đôi dép rách”. Để cùng nhau nỗ lực vượt thoát mọi chướng ngại, xây dựng lại ngôi nhà Phật giáo mà ngót 34 năm qua ở miền Nam và 54 năm ở miền Bắc, cơ sở Phật giáo bị đánh phá tận gốc rễ, nhưng ý chí Phật giáo vẫn trường tồn.

Trước hoàn cảnh hiện tại, Giáo hội đặc biệt quan tâm đến hiện tình đất nước qua các nhận thức sau đây :

1. An ninh quốc phòng và Vẹn toàn lãnh thổ đang bị uy hiếp. Chỉ nhờ vào sức mạnh toàn dân mới vượt qua khỏi cơn nguy biến. Nếu Đảng và Nhà nước không cấp thời cải tổ sâu rộng hệ thống chính trị độc đảng sang thể chế đa đảng để toàn dân và các thành phần dân tộc có thể tham gia cứu nguy quê cha đất tổ.

2. Cần phổ biến ý thức đặt sự sống còn của Tổ quốc và Dân tộc lên trên mọi ý thức hệ cục bộ hay giai cấp. Đảng và Nhà nước hiện nay đừng vì mối quan hệ đồng chí qua hiệp ước “mạ bằng 16 chữ vàng và 4 tốt” mà ra lệnh đàn áp bắt bớ những sinh viên, học sinh, trí thức, các nhà văn, nhà báo biểu tình ôn hòa trước tòa Đại sứ và Tổng lãnh sự Trung quốc ở Hà Nội và Sài gòn để phản đối lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc Việt Nam.

3. Ra sức vận động trả tự do cho các tù nhân vì lương tri mà vận động cho dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, nên bị bắt giam, nhất là các sinh viên, học sinh, các nhà trí thức, nhà văn, nhà báo... do biểu hiện lòng yêu nước, chống ngoại xâm mà bị đàn áp, tù đày.

5. Vận động nói lên các ý kiến trung thực, xây dựng của nhân dân, các nhà khoa học, các nhà trí thức, chuyên gia, nhằm chận đứng kế hoạch khai thác bô-xít ở Tây nguyên đang gây ra đại nạn sinh thái và thảm họa Hán hóa !

Trong tinh thần ưu tư cho chúng sinh và đất nước, tôi cầu chúc toàn thể chư tôn đức Tăng Ni, đồng bào Phật tử một Mùa Phật Đản trọng thể và an vui.

Nam mô Bổn sư Thích ca Mâu ni Phật.

Thanh Minh Thiền Viện ngày 16 tháng 4 năm 2009
Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống
kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo
(ấn ký)
Sa Môn Thích Quảng Độ

BÀI GIẢNG PHẬT-ĐẢN Phật lịch 2553
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính thưa chư liệt quí vị.
Mùa sen lại nở, mùa hoa Vô Ưu lại về. Người con Phật khắp năm châu, lòng tràn đầy hân hoan, đón chào ngày đản sanh của đấng Giác ngộ.
Theo dòng chảy thời gian, biết bao tang thương dâu bể. Trải qua 25 thế kỷ, Phật pháp cũng đâu nằm ngoài cái qui luât “thành, trụ, hoại, không”, từ 500 năm chánh pháp, 1.000 năm tượng pháp và 1.000 năm đầu của 10.000 năm mạt pháp.
Hôm nay, hương sen thoảng bay, gợi nhớ mùa hoa Vô-Ưu ngày cũ. Đã là Phật tử, chúng ta ai chẳng nhớ đến trang sử của Đức Bổn sư, một đấng Giáo chủ tối cao, một bậc Đạo sư của trời người, cha lành trong bốn loài. Một trang sử chưa từng có trong thế giới hôm nay. Trang sử sáng ngời của đấng Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi.
Vì sự giải thoát của vạn loại hàm linh mà Ngài đản sanh, vì sự an lạc của nhân thiên mà Ngài xuất hiện, vì thoát ly khổ não cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh mà Ngài thị hiện nơi cõi đời nầy.
Nhân ngày Đản sanh của Đức Từ phụ, chúng ta cùng nhau nhắc nhở lại trang sử đời Ngài, rồi ngẫm lại mình, thử xem chúng ta đã tự thanh tịnh cho mình bao nhiêu nghiệp chướng, oan trái tiền khiên, trên bước đường trở về với “bản lai diên mục”
Kính thưa chư liệt vị
Trước đây 2553 năm, cũng vào ngày trăng tròn tháng tư (năm 623 trước dương lịch), trong vườn Lâm-Tỳ-Ni tại Ca-Tỳ-La-Vệ, bên ranh giới Ấn độ của xứ Népal ngày nay, có một hoàng tử đươc hạ sanh mà về sau, trở thành bậc giáo chủ vĩ đại nhất thế gian. Cha Hoàng tử là đức vua Tinh phạn, thuộc quí tộc Thích Ca và mẹ là Hoàng hậu Ma da. Sau khi hạ sanh Hoàng tử được 7 ngày thì hoàng hậu Ma da băng hà, người em gái là Ma ha Ba-xà-ba-đề thay hoàng hậu chăm sóc dưỡng dục hoàng tử.
Tin hoàng tử chào đời được loan truyền, tất cả thần dân trong vương quốc đều vui mừng khôn xiết. Lúc bấy giờ có vị tiên tên A-tư-đà xin được vào thăm Hoàng tử. Vua Tịnh Phạn rất lấy làm hân hỷ, cho bồng hoàng tử ra gặp đạo sĩ. Hoàng tử bỗng nhiên hướng về đạo sĩ và đặt hai chân lên đầu tóc ông. Đang ngồi trên ghế, đạo sĩ chổi dậy, chắp tay xá chào hoàng tử. Ông tiên tri rằng, về sau Hoàng tử sẽ trở thành một bậc vĩ nhân cao quí nhất của nhân loại. Đức vua cũng làm theo, xá chào Hoàng tử.
Sau đó tiên A-tư-đà, thoạt tiên cười khan, cười rồi lại khóc. Mọi người đều ngạc nhiên trước thái độ của ông. Đạo sĩ A-tư-đà giải thích rằng, ông cười vì biết sau này Hoàng tử sẽ đắc quả Phật, và ông khóc vì không được phước lành, thọ giáo với bậc trí tuệ cao minh, Chánh đẳng Chánh giác.
Lễ quán đảnh : (đặt tên)
Khi Hoàng tử sanh được năm ngày, vua Tịnh Phạn đặt tên là Sĩ-đạt-ta có nghĩa : người được toại nguyện. Cồ-đàm là họ ngài. Theo phong tục, vua cho thỉnh nhiều vị Bà-la-môn học rộng tài cao vào triều nội, để dự lễ đặt tên cho Hoàng tử. Trong đó có 8 vị Bà-la-môn đặc biệt lỗi lạc. Sau khi quan sát tướng hảo của Hoàng tử, 7 vị cùng giải thích rằng : Nếu làm vua, thì trở thành Hoàng đế vĩ đại nhất thế gian ; Nếu xuất gia tu hành sẽ đắc quả vị Phật. Nhưng vị đạo sĩ tên Kiều-trần-như quả quyết rằng, Hoàng tử sẽ thoát tục và chứng đắc quả Phật.
Lễ Hạ điền :
Để khuyến khích nông dân, nhà vua tổ chức một cuộc lễ gọi là Hạ điền. Đây là cuộc lễ để nhân dân cầu nguyện và vui chơi, trước khi bắt tay vào công việc ruông nương đồng áng.
Sáng sớm, đức vua và quần thần ăn mặc triều phục ra tận nơi hành lễ. Hoàng tử Sĩ-đạt-ta cũng được đi theo dự.
Quang cảnh buổi lễ nhộn nhịp tưng bừng, mọi người hân hoan vui thích. Trái với cảnh buổi lễ, nơi dưới bóng cây râm mát, khung cảnh êm đềm như mời mọc sự tĩnh lặng quán niệm. Hoàng tử ngồi tréo hai chân theo lối kiết già, trầm ngâm lặng lẽ gom tâm an trụ và đắc sơ thiền.
Các cung phi nhìn thấy Hoàng tử ngồi trầm tư tĩnh lặng, họ ngạc nhiên đến tâu lại cho đức vua. Vua Tịnh Phạn đến nơi thấy hoàng tử vẫn còn tham thiền. Đức vua xá chào Hoàng tử và nói : Hỡi con yêu quí, đây là lần thứ nhì phụ vương đảnh lễ con.
Kết hôn :
Khi trưởng thành, Hoàng tử kết duyên cùng công chúa Da-du-đà-la, sống cuộc đời vương giả, không hay biết chi đến cảnh khổ của nhân loại bên ngoài. Tuy nhiên, trong những lần đi du ngoạn quanh bốn cửa thành, Ngài đã mục kích những cảnh sanh già bệnh chết, và hình ảnh một bậc sa môn. Với bản chất từ bi và trí tuệ vô lượng, Ngài luôn trầm tư và không yên lòng hưởng thụ những lạc thú tạm bợ của cuộc đời vương giả, Ngài nhận định được rằng thế gian là vô thường là đau khổ.
Xuất gia :
Hoàng tử cảm nhận đươc sự chi phối của sanh, lão, bịnh, tử đối với cuộc sống của con người. Cái vô thường luôn cận kề rình rập quanh cái ước mong vĩnh hằng của nhân sinh vạn loại. Ý niệm xuất ly với lòng đại bi cứu khổ đã nung nấu trong Ngài cho dầu chung quanh có biết bao sự lôi cuốn mãnh liệt của dục lạc trần gian.
Đời sống vương giả không còn thích hợp với vị Phật tương lai, Ngài quyết định xuất gia. Giờ đã điểm. Ngài lệnh cho Xa-Nặc, người đánh xe thân tín, thắng yên ngựa Kiền-trắc, thẳng đến cung điện công chúa. Ngài nhìn vợ con yên giấc, với lòng từ ái, bình thản không chao động, không trìu mến, rồi ra đi.
Ngài ra đi giữa đêm khuya, bỏ lại sau lưng cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh, bỏ lại sau lưng hạnh phúc tạm bợ của cuộc đời. Ngài ra đi tìm cầu chân lý, với lòng trĩu nặng một tình thương bao la rộng khắp đến mọi người, bao trùm tất cả nhân loại, chúng sanh.
Tìm chân lý :
Ngài đã tìm đến đạo sĩ A-la-lam ; đạo sĩ Uất-đầu-lam-phất. Với phương pháp của các đạo sĩ này, trong thời gian ngắn ngài đã chứng đến cảnh thiền cao nhất của thiền Vô sắc giới, cảnh giới Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ. Tuy nhiên đạo sĩ Gotama (Hoàng tử) cảm thấy rằng, đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Không thoả mãn với phương pháp tu tập của Uất-đầu-lam-phất. Ngài lại ra đi. Nhận thấy không ai có thể dẫn dắt mình thành tựu mục tiêu giải thoát, vì tất cả, đều chưa thoát khỏi vòng vô minh. Từ đó Ngài không tìm sự giúp đỡ bên ngoài nữa.
Cuộc chiến đấu :
Luôn gặp trở ngại, nhưng Ngài không nản chí. Một ngày kia Ngài đến Uruvela, thị trấn xứ Senami. Ngài quyết định lưu lại tại đây để thành tựu nguyên vọng. Ở đây, Ngài đã kết bạn với Kiều-trần-như và 4 đạo sĩ khác tên Ma-ha-bạt-đề, Ma-nam-câu-lỵ, A-xả-bà-thệ, Thập-lực-ca-diếp cũng đi tìm Ngài để tu học.
Người Ấn độ thuở ấy, rất thiết tha trung thành với các nghi lễ, các hình thức khổ hạnh và các thể thức cúng tế. Theo quan niệm đó. Nếu không khép mình vào nếp sống khắt khe khổ hạnh thì không thể giải thoát. Với niềm tin trong tín ngưỡng này, Ngài cùng với 5 anh em Kiều-trần-như, bắt đầu cuộc chiến đấu phi thường, kéo dài 6 năm trường, khép mình vào nếp sống khổ hạnh cùng cực. Đến lúc thân thể tráng kiện của Ngài chỉ còn da bọc xương. Sự khổ hạnh càng đưa Ngài xa rời mục tiêu đi tìm chân lý. Kinh điển ghi chép lại sự nỗ lực kiên trì tinh tấn, những phương pháp khác nhau, mà Ngài đã áp dụng và sự thành công cuối cùng của Ngài trong cuộc tranh đấu vạn phần cam go gian khổ này.
Con đường Trung đạo :
Sau 6 năm, tự bản thân kinh nghiệm, Ngài nhận thức lối tu khổ hạnh không thể đem lại lợi ích cũng như đạt được quả vị giải thoát. Ngài liền từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã từ bỏ lối sống lợi dưỡng, chỉ làm chậm trễ quá trình giải thoát chứng đạo. Ngài chọn con đường “Trung đạo” mà sau sẽ trở thành một trong những điểm đặc biệt của giáo lý Ngài.
Ngài nhận định : Chỉ có tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể tráng kiện. Nên quyết định không nhịn đói, mà dùng những vật thực thô sơ.
Những bạn đồng tu khổ hạnh thấy vậy cho rằng Ngài đã đã thối chí và đã quay về đời sống lợi dưỡng. Và họ bỏ Ngài ra đi. Nhưng Ngài không ngã lòng.
Bình minh của Chân lý :
Sau khi dùng một ít vật thực thô sơ. Đạo sĩ Gotama phục hồi sức khoẻ và dễ dàng nhập Sơ thiền, tầng thiền Ngài đã thành tựu trong buổi thiếu thời. Từ đó, Ngài nhập Nhị thiền, rồi Tam thiền và Tứ thiền. Tâm Ngài an trụ vững chắc vào một điểm. Lắng dịu trong sáng như mặt gương lau chùi bóng láng. Và mọi vật đều có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Ngài hướng tâm về Tuệ giác liên quan đến trạng thái “Hồi nhớ những kiếp quá khứ (Túc mạng minh). Đầu tiên Ngài nhớ lại một kiếp, hai kiếp, ba kiếp rồi bốn kiếp, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi kiếp. Rồi một trăm, một ngàn, một trăm ngàn. Rồi sự phân tán của nhiều chu kỳ thế gian. Sự phát triển của nhiều chu kỳ thế gian. Rồi cả sự phân tán cùng phát triển của nhiều chu kỳ thế gian.
Ở đây Ngài tên gì, sanh trong gia đình nào, kiêng cử điều gì, vui thích và khổ đau thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi, Ngài tái sanh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cử điều gì, vui thích khổ đau thế nào, và chết cách nào. Rồi từ đó trở đi, tái sanh vào cảnh này…
Như thế, Ngài hồi nhớ cách thức tái sanh trong vô lượng về những kiếp sống qúa khứ. Đây là Tuệ giác đầu tiên Ngài chứng ngộ vào lúc canh một của đêm Thành Đạo.
Tiếp đến, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ “Tri giác hiện tượng sanh diệt của chúng sanh” (Thiên nhãn minh). Với tuệ nhãn tinh khiết siêu phàm. Ngài thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào kiếp khác. Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người khổ đau, tất cả trải qua hiện tượng sanh diệt, tuỳ hành vi tạo tác của mỗi ngươi.
Ngài biết rằng, người này do hành động lời nói bất thiện, nguyền rủa bậc thiện trí cao thượng, niềm tin và nếp sống cuả người tà kiến, sau khi lìa đời đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh.Ngài biết rằng, những người kia, do hành động lời nói tư tưởng tốt, biết tôn trọng thiện trí cao thượng, có chánh tín, có nếp sống của người chánh kiến. Sau khi mạng chung, đã tái sanh vào cõi trời an vui hạnh phúc. Với Thiên nhãn minh Ngài mục kích tình trạng diệt và sanh trở lại của các chúng sanh.
Đây là tuệ giác thứ hai mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa đêm Thành Đạo.
- Tiếp đến Ngài hướng tâm thanh tịnh về “Tuệ Hiểu Biết sự chấm dứt các pháp trầm luân” (Lậu tận minh). Đối với thực tại Ngài nhận thức : Đây là phiền não, đây là sự chấm dứt phiền não. Đây là con đường chấm dứt phiền não.
- Và như thế, đúng với thực tại, Ngài nhận định : Đây là Ô nhiễm, đây là sự chấm dứt ô nhiễm, đây là con đường chấm dứt sự ô nhiễm.
- Với nhận thức như thế, tâm Ngài giải thoát ra khỏi dục lậu (Ô nhiễm của dục vọng) hữu lậu (Ô nhiễm của sự luyến ái đời sống), Vô minh lậu (Ô nhiễm của vô minh)Được giải thoát Ngài biết rằng : “Ta đã được giải thoát. Sự tái sanh đã chấm dứt. Phạm hạnh đã lập. Việc cần làm đã xong. Không còn tái sanh trạng thái này nữa.
- Đây là tuệ giác thứ ba mà Ngài chứng ngộ trong canh ba đêm Thành đạo.
Màn vô minh đã giải toả, Trí tuệ đã phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đã đến.(phỏng theo ý trong Đức Phật và Phật Pháp của Narada)
Chuyển Pháp Luân :
Sau khi Thế Tôn thành đạo, Ngài liền nghĩ đến việc đem giáo lý mà Ngài đã chứng được, truyền bá cho chúng sanh. Ngài nhận thấy, chúng sanh ngu si cố chấp, ưa hưởng dục lạc, tâm tánh cứng cỏi, khó dạy khó bảo. Còn Pháp Ngài chứng được, thậm thâm vi diệu, khó biết khó thấu. Vì vậy, Ngài muốn nhập Niết Bàn. Khi Ngài khởi lên ý nghĩ như thế, vua Phạm Thiên đã đến đảnh lễ, cung thỉnh Thế Tôn, vì chúng sanh ngu muội, mà ở nơi đời khai diễn chánh pháp. Trong những chúng sanh ngu muội này, có những kẻ có thể nương vào chánh pháp Thế Tôn, mà thoát ly sanh tử. Sau khi Phạm vương thỉnh Phật chuyển Pháp luân. Thế Tôn nhận lời mà không nhập Niết Bàn.
Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quán sát căn cơ chúng sanh. Thấy chúng sanh như những hoa sen trong hồ, có hoa vừa từ ngó nhú ra, có cái ở lưng chừng trong nước, có cái đã lên gần mặt nước, có cái đã nhô lên, tuy chưa ra khỏi nước, nhưng đã có thể hấp thụ ánh mặt trời, để nở thành hoa. Có hoa đã lên cao, chỉ còn chờ ánh dương quang là khai mở, triển phô hương sắc toả ngát hương thơm cho đời. Ngài thấy, căn cơ chúng sanh như sen trong hồ. Có kẻ chưa phát tâm, như hạt sen chưa được gieo, có kẻ mới phát tâm, như hạt sen nứt thành ngó sen, đã phát tâm, như sen đang ở trong nước. Có những kẻ phát tâm sâu xa, tâm tánh nhu nhuyễn, có thể lãnh thọ giáo pháp và thoát ly sanh tử, cứu độ chúng sanh. Ví như, những đoá hoa vươn khỏi mặt nước, gặp ánh sáng là khai mở, toả hương thơm ngát cho đời.
Sau khi quán sát căn cơ. Ngài đi đến Khổ Hạnh Lâm, nơi vườn Lộc Uyển, vì năm anh em Kiều-Trần-Như, diễn nói pháp Tứ Đế. Năm anh em Kiều-Trần-Như, nghe lời dạy Thế Tôn, như người đi đêm bỗng có ánh chớp loé sáng, ngã chấp mê lầm tan vỡ, trí huệ siêu thoát xuất hiện. Năm anh em Kiều-Trần-Như đã chứng đắc quả A-la-hán. Đây là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca. Và bài pháp đầu tiên, Thế Tôn chuyển Pháp luân là Tứ Thánh Đế. Từ đây, danh xưng Tam Bảo đã có đầy đủ, Phật, Pháp là Tứ Thánh Đế, và tăng là năm anh em Kiều-trần-như.
Kính thưa chư liệt vị.
Hơn 2553 năm trôi qua, giáo pháp Thế Tôn triển chuyển, độ thoát vô lượng chúng sanh chứng đắc Thánh quả, nhân thiên hoan lạc. Hôm nay, kỷ niệm ngày Thánh đản của đức Từ Phụ chúng ta theo dấu trở lại vườn Lộc Giả, ôn lại bài pháp Tứ Diệu Đế mà Thế Tôn đã chuyển vận lần đầu tiên trong cõi Ta Bà nầy .
Tứ Diệu Đế là bốn sự thật rõ ràng, chắc chắn nhất và mầu nhiệm nhất, không có một giáo lý nào, chủ thuyết nào có thể so sánh kịp. Với bốn sự thật này, người tu hành theo đây có thể, từ tối đến chỗ sáng, từ mê đến ngộ.
Tứ Diệu Đế gồm có :
Khổ đế ; Tập đế ; Diệt đế ; và Đạo đế.
- Khổ đế : Là nêu lên những cảnh khổ trong cuộc đời. Nói chung, đã có thân là có khổ. Sanh khổ, già khổ, bịnh khổ, chết khổ. Cầu không được, oán thù gặp nhau, thương yêu xa lìa… ngũ ấm xí thạnh, lạnh nóng, muỗi mòng, áp bức thân thể, không thể gọi là vui được, nên gọi là khổ.
- Tập đế : Là nói về nguyên nhân của những nỗi khổ đó. Nguyên nhân thì nhiều. Nhưng chính yếu là “Ái dục”, là kiết sử tham, sân, si. Hành giả tu hành dứt trừ kiết sử tham, sân, si - ái dục - vị đó chứng được quả A-la-hán. Có tâm ái dục, là có thọ thân sau để lãnh quả và trả quả. Trong kinh Na-Tiên tỳ kheo. Vua Di-lan-đà, có hỏi ngài Na Tiên rằng, bậc tu hành có thể biết mình tái sanh, hay không tái sanh lại cõi đời này nữa hay không ? Ngài Na Tiên trả lời là : Biết, và ngài hỏi lại vua Di lan đà. Những nông phu làm ruộng, có biết mùa tới mình thu hoạch hay không ? Nhà vua trả lời là : Biết. Nếu năm nay, những nông phu đó có gieo mạ, cấy lúa, và họ biết chắc, năm sau sẽ gặt lúa ; nếu không cấy lúa năm nay, họ biết chắc năm tới họ sẽ không gặt lúa nữa. Bậc tu hành cũng vậy. Vị nào, biết mình đã đoạn tâm ái dục, dứt trừ kiết sử tham, sân, si họ biết chắc, không còn thọ thân sau, tái sanh lại cõi này nữa, đã thoát ly sanh tử chứng đắc Niết Bàn.
Nhiều người khi nghiên cứu giáo lý đạo Phật cho rằng : đạo Phật là đạo bi quan, yếm thế, lánh khổ tìm vui ; làm cho con người yếu ớt, tiêu cực, không quan tâm, thương tưởng đến đến kẻ khác. Ở đây, đạo Phật không làm như thế. Đạo Phật trình bày cho mọi người thấy rõ cái hiện tại đen tối của mình, cái hoàn cảnh xấu xa, có nhiều lỗi lầm khuyết điểm. Để từ đó, có phương pháp cải đổi, kiến tạo lại một cuộc sống đẹp đẽ, an vui hơn. Cảnh giới an vui đó là Niết Bàn, mà Phật đã dạy như sau.
- Diệt đế : Diệt là tiêu diệt, trừ diệt. Ở đây, là diệt dục vọng mê mờ, phiền não. Đế là chắc thật, đúng đắn, do trí tuệ sáng suốt soi thấu và thuyết minh.
Khổ là nói về quả ; Tập là nói về nhân. Nói dứt khổ mà không dứt trừ cái nguyên nhân gây ra khổ (tức là Tập), thì không bao giờ hết khổ. Muốn diệt khổ tận gốc, thì phải diệt cái nguyên nhân gây ra khổ. Nguyên nhân đã diệt, thì khổ quả mới hết vĩnh viễn. Cũng như, muốn diệt cỏ cú, phải đào bỏ gốc rễ, nếu đem đá đè lên, cỏ không mọc được, nhưng lấy đá đi, thì cỏ sẽ mọc lại. Nói dứt khổ, mà không dứt nguyên nhân, thì kết quả cũng như vậy.
Muốn giải thoát đau khổ, tất phải diệt trừ Tập nhân phiền não. Tập nhân phiền não được thanh tịnh, là hành giả đang bước gần đến Niết Bàn giải thoát. Như một cái phao , càng bớt dần những vật nặng dìm nó xuống, thì nó lại nổi dần lên mặt nước nhiều chừng ấy. Nói Diệt đế là nói dứt trừ phiền não, các phiền não diệt gọi là Niết Bàn, là cảnh an vui tịch tịnh, là cảnh giới tự chứng, tự biết, lìa ngôn ngữ, nhưng không phải là “không tưởng”, không phải đi tìm, cũng không phải không đi tìm. Như người uống nước, lạnh nóng tự biết mà thôi.
Nói tóm, Diệt đế là chân lý chắc thật, nói về quả vị mà một hành giả tu hành chứng đắc. Nhưng sự tu hành có thấp có cao, có rộng có hẹp, nên quả Niết Bàn cũng có thấp có cao, có hoàn toàn hay chưa hoàn toàn. Muốn thấy được Niết Bàn thật, phải tự mình thân chứng, phải tự mình thể nhập Niết Bàn. Muốn thân chứng, thể nhập Niết Bàn, cần phải tu theo phương pháp mà Đức Phật dạy trong phần Đạo đế.
- Đạo đế : Có 37 phẩm, chia làm 7 loại :
1-Bốn Niệm xứ ; 2-Bốn Chánh Cần ; 3-Bốn Như ý túc ; 4-Năm căn ; 5-Năm lực ; 6-Bảy phần Bồ đề ; 7-Tám phần Chánh Đạo.
Trong 37 phẩm trợ đạo, Bát Chánh Đạo là pháp môn chính, được nhắc nhở nhiều nhất. Vì thế, khi nói Đạo đế, người ta thường nghĩ ngay đến Bát Chánh Đạo. Cho nên, nhiều người lầm tưởng Đạo đế với Bát Chánh Đạo là một.
Sở dĩ nói như vậy, vì Bát Chánh Đạo bao gồm các pháp môn khác của Đạo đế, khế hợp mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở, đối với Tiểu thừa cũng như Đại thừa, Đông cũng như Tây phương, đều công nhận giá trị hoàn hảo cao cả của Bát Chánh Đạo. Và đều áp dụng pháp môn này trong sự tu hành của mình, để đoạn trừ phiền não, hầu bước lên con đường giải thoát an vui tự tại.
Định nghĩa Bát Chánh Đạo :
Bát Chánh Đạo là tám con đường ngay thẳng, là phương tiện mầu nhiệm, đưa chúng sanh đến đời sống chí diệu. Là con đường có tám nhánh, đưa chúng sanh từ phàm đến Thánh. Bát Chánh Đạo gồm có : Chánh kiến ; Chánh tư duy ; Chánh ngữ ; Chánh nghiệp ; Chánh mạng ; Chánh tinh tấn ; Chánh niệm ; Chánh định.
- Chánh kiến : Chánh là ngay thẳng, đúng đắn. Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến nói cho đủ là Chánh tri kiến là thấy nghe hay biết một cách ngay thẳng, đúng với sự thật. Ngưởi có chánh kiến là : thấy thế nào thì nhận đúng thế ấy, không lấy trắng làm đen, tốt làm xấu, phải làm trái, thật làm giả…người có chánh kiến, là người không bị tập quán, thành kiến, dục vọng ngăn che làm sai lạc, người chánh kiến nhận biết cái nào giả cái nào thật. Đã biết cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú, chỉ chuyên tâm vào sự lý chân thật, làm cho đèn tuệ sáng ngời, không mê muội tiền trần ngoại vật. Nói tóm, Chánh tri kiến là trí tuệ trong Bốn niệm xứ, Căn, Lực, Trạch pháp.
- Chánh tư duy : Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét, thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ xét nghiệm chân chánh, tư tưởng suy nghĩ đúng với lẽ phải. Người có Chánh tư duy, thì hay xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy gẫm thể tánh nhiệm mầu, biết những ý nghĩ nào xấu xa, hành vi nào lỗi lầm để sám hối. Thường tư duy ba món Vô lậu học : Giới, Định, Huệ để tu hành giải thoát. Biết Tham, sân, si là nguồn gốc của tội ác, tìm phương pháp đúng đắn để tu. Nói tóm, Chánh tư duy là khi quán sát bốn đế có tâm vô lậu tương ưng, suy nghĩ, phát động, giác biết đo lường. Giải thoát cho mình và người.
- Chánh ngữ : là lời nói chân thật, công bình ngay thẳng và hợp lý. Người có chánh ngữ là người không bao giờ nói sai khác, thiên vị. Thấy dở nói hay, hay nói dở, có nói không, không nói có, đến đây nói kia, đến kia nói đây. Nói lời trau chuốt mê hoặc lòng người. Người có chánh ngữ là người có lời nói đúng sự thật, hợp chân lý, lời nói có lợi ích cho toàn thể chúng sanh. Nói tóm, trừ bốn thứ tà mạng thuộc về khẩu, dùng vô lậu trí tuệ, trừ bỏ xa lìa khẩu tà nghiệp gọi là Chánh ngữ. Chánh nghiệp cũng như vậy.
- Chánh nghiệp : tiếng Phạn Karma có nghĩa hành động tạo tác. Chánh nghiệp là việc làm, hành động chân chánh, đúng lẽ phải, phù hợp chân lý, có lợi ích cho người và vật.- Chánh mạng : mạng là thân mạng, là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sinh sống một cách chân chánh, bằng nghề nghiệp lương thiện. Có năm thứ tà mạng cần phải tránh : 1- Vì lợi dưỡng, dối hiện tướng kỳ đặc. 2- Vì lợi dưỡng, nói công đức mình. 3- Vì lợi dưỡng, xem tướng cát hung cho người. 4- Vì lợi dưỡng, to tiếng trá hiện oai nghi, khiến người khiếp sợ, 5- Vì lợi dưỡng, khen ngợi công đức cúng dường, kích động lòng người. Dùng trí tuệ vô lậu, trừ bỏ xả ly 5 thứ tà mạng gọi là Chánh mạng.- Chánh tinh tấn : Tinh tấn là chuyên cần siêng năng, thẳng tiến đến mục đích đã vạch sẵn, không có lý do gì mà lùi bước.
Chánh tinh tấn là : tinh tấn căn, tinh tấn lực, tinh tấn giác trong bốn Chánh cần
- Chánh niệm : là ghi nhớ, ghi nhớ những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình và người, những đạo lý chân chánh cao siêu. Chánh niệm có niệm căn, niệm lực, niệm giác. Chánh niệm thường quán sát cảnh chân đế, năng tưởng niệm các pháp trợ đạo, luôn nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, trải qua số kiếp không khởi tâm xao lãng.
- Chánh định : Định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, để thấy rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng chân lý, có lợi cho mình và người. Người theo đúng chánh định, là người thường tập trung tư tưởng, quán chiếu những vấn đề chính như : Quán Thân bất tịnh ; Quán Từ bi ; Quán Nhân duyên ; Quán Sổ tức…Chánh định có Định căn, Định lực, Định giác.
Bát Chánh Đạo là pháp môn rất thông dụng, vì sự lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân người tu, đối với đời sống trong cộng đồng xã hội, trong hiện tại và ở tương lai.
Kính thưa quý liệt vị.
Hiểu được lý Tứ Đế là biết : Khổ là thật khổ, không thể làm cho vui lên được. Dù mặt trời có lạnh đi và mặt trăng có nóng lên, thì chân lý ấy vẫn không thể thay đổi. Trong kinh Di Giáo Phật dạy “…các pháp biến động và bất động, đều ở trong trạng thái bất an và tan rã. Nên nhớ ngọn lửa vô thường đang thiêu đốt thế gian mà sớm cầu tự độ…” Đức Thế Tôn cũng bảo : “…Ta như vị lương y, biết bịnh cho thuốc, như người dẫn đường tốt. Không đi, không phải lỗi của người dẫn đường, không uống thuốc không phải lỗi của lương y…”
Mà con đường Thế Tôn chỉ dạy là con đường nào. Cứ theo khế lý khế cơ mà nói, thì không ngoài Bát Chánh Đạo. Cho nên, y theo Bát Chánh Đạo tu tập thì :
- Bản thân có thể sửa đổi những tội lỗi bất chánh, trong đời sống hằng ngày. Những ý niệm mê mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành vi sai trái, đời sống vô luân. Theo đây, sẽ được cải thiện sữa đổi.
- Hoàn cảnh, nếu Phật tử phát huy tu tập Bát Chánh Đạo có thể cải đổi xã hội, tạo dựng một tương lai tốt đẹp, gieo trồng hạt giống giải thoát, ngày sau đạt quả vị Vô Thượng Bồ Đề.
Kính thưa chư liệt vị
Ôn lại bài Pháp mà Đức Thế tôn khai diễn đầu tiên nơi vườn Lộc Uyển, để thấy rằng : phần đông chúng sanh nơi cõi này, với bản chất phàm phu ngu muội, căn tánh hạ liệt như chúng ta, nếu bỏ đi quán niệm cuộc đời là khổ, quên mất con đường Bát Chánh Đạo, thì khó mà thoát ly sanh tử phiền não, chứng đắc Niết Bàn.
Sen trong hồ thoảng hương lan toả, như sóng Pháp âm còn vọng mãi tới giờ. Chỉ vì người mù không thấy, chứ không phải mặt trời tắt ánh dương quang. Kính mong chư liệt vị, an lạc trong từ quang chư Phật. Nguyện cầu, Long thần, Hộ Pháp gia hộ Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất sớm thoát ách nạn, Dân tộc Việt Nam được thăng hoa, Thế giới hoà bình, Chúng sanh an lạc.
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thề nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thề nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Nguyện đem công đức này.
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sanh.
Đều trọn thành Phật đạo.
Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Sa môn Thích Như Tấn