Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009

NHÌN THẲNG SỰ THẬT

ThíchViên Lý
Từ nhiều năm qua, do sự chỉ đạo của những thế lực vô minh, đã có nhiều bài viết bôi nhọ đức cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang, Đại lão hòa Thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo và nhiều Tôn đức cũng như quý Cư sỹ Phật tử khác đang phục vụ cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quốc nội và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo tại hải ngoại, tất nhiên, những bài viết ấy không giá trị, vì người viết chỉ sử dụng nặc danh và đưa ra những lý luận điên đảo, thiếu tỉnh giác. Những bài viết của họ nhằm làm cho uy tín của Phật giáo bị thương tổn, tạo cái cớ để kẻ xấu lấy đó hủy báng Phật giáo, nguy hiểm hơn, đẩy Phật giáo vào chân tường để Cọng sản dễ bề tiêu diệt mà trước mắt là tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong đó có Văn Phòng II Viện Hóa Đạo, một Giáo Hội đã và đang trực diện đấu tranh bảo vệ chánh pháp, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam cũng như tranh đấu cho tự do, nhân quyền và dân chủ .
Dù đã trải nghiệm việc bị xúc phạm bởi những Công an qua những lần bị bắt, thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy đôi chút khó chịu, buồn và lo lắng nhiều đến tiền đồ của đất nước và đạo pháp vì những xuyên tạc, đánh phá liên tục ở đây không là từ bên ngoài mà xuất phát từ ngay nội bộ có chỉ đạo ngầm của các thế lực đen tối cực ác. Đã một số lần, sau khi đọc những bài viết như thế, tôi cố hình dung về tương lai của Giáo hội rồi tự hỏi, những người nặc danh viết bài chửi bới Giáo hội một cách thiếu trách nhiệm như thế sẽ đưa Giáo hội về đâu khi bản thân họ chưa định hình nổi về một Việt Nam với quá nhiều đau thương, bất trắc? Tuy nhiên, sau khi đọc một vài bài có cùng luận điệu và chủ đích như thế, tôi xem những bài viết bôi nhọ đó như những tiếp khích cần thiết, vì những bài viết ấy vừa giúp tôi thực hành hạnh nhẫn nhục nhưng đồng lúc cũng giúp tôi có đủ sức mạnh để vượt qua mọi chướng duyên, thách đố. Một cách thành thật, tôi thương những kẻ nặc danh này, tôi thương họ là vì họ chưa trưởng thành đủ. Họ đã không có được cái dũng hay nói khác hơn, đức tính trượng phu để dám đề tên thật của mình trong các bài viết, mà chỉ dám sử dụng nặc danh để đánh phá, bôi nhọ người khác một cách lén lút thiếu nhân cách. Tôi thương họ vì họ hoàn toàn không hiểu gì về Giáo hội. Không hiểu Giáo hội không phải là một cái tội, nhưng không hiểu mà cứ viết một cách thiếu trách nhiệm thì đối với luật pháp, đó là một cái tội - tội bôi nhọ kẻ khác. Với cái tội đó, theo luật pháp Hoa Kỳ, họ có thể trả một giá tương ứng nào đó, chẳng những thế, theo luật tắc nhân quả, những người này không thể lẩn trốn sự thật và đây là điều rất đáng thương hại cho họ.
Tôi tin rằng, chỉ có những người thiếu hiểu biết mới hành động một cách vô minh như thế, hơn nữa, khi họ viết nặng lời về các bậc Cao Tăng và cá nhân tôi thì họ đã tự làm tổn thương chính bản thân họ và điều này đã được đức Phật minh thị trong kinh Tứ Thập Nhị Chương như sau: "Ác nhân hại hiền giả du ngưỡng thiên nhi thóa, thóa bất chí thiên hoàn tùng kỷ đọa."[1] Tạm dịch: Kẻ ác hại người hiền chẳng khác nào ngửa mặt phun nước miếng lên trời, phun chẳng tới trời nhưng lại rơi nhằm chính mình.
Khi họ xuyên tạc, bôi nhọ người khác bằng những lời lẽ hằn học, đầy thù hận thì lúc đó cái tâm của họ cũng đầy sân si, thù hận và điều đó có nghĩa là họ tự hành hạ họ, tự làm khổ họ, chứ kỳ thật, những điều họ viết không đúng về Giáo hội không làm tổn thương Giáo hội hoặc làm chúng tôi bận tâm như họ nghĩ. Một cách thành thật, quý Tôn đức và tôi rất thanh thản với những Phật sự của mình. Vả lại, chúng tôi không có đủ thì giờ để chu toàn mọi Phật sự quan yếu, vì thế, chúng tôi không phung phí thời gian để nghĩ về những việc bất chánh của họ.
Dù sao, chúng tôi ý thức rất rõ rằng, khi làm việc cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, nhất là dấn thân tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền, chắc chắn chúng tôi phải trả một giá khá đắt. Và, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận điều đó với tất cả sự an lạc, bình thản, đồng lúc nỗ lực chu toàn trách nhiệm trước lịch sử chứ không bỏ cuộc, đầu hàng trước những đánh phá bất công, phi lý của những kẻ phản chống Giáo Hội.
Như trên đã đề cập, tôi thương những kẻ ác tâm đánh phá Phật giáo vì biết là do vô minh nên họ mới tác tạo những nghiệp ác như thế, tôi càng thương hơn nữa những người Phật tử thuần thành đã và đang là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp về những cách đánh phá Phật giáo không thương tiếc của những kẻ ác này.
Không phải một lần, mà rất nhiều lần, nhiều người đề nghị: Vì để làm sáng tỏ sự thật, tôi nên có những phản ứng cần thiết, tuy nhiên, phần vì Phật sự đa đoan, nhưng lý do chính vẫn là tôi không muốn mất thì giờ để đối đáp với những bài viết của những kẻ nặc danh như thế. Nay, vì kính trọng những người đã hết lòng hỗ trợ tôi, tôi muốn nói một lần nhằm trả tất cả sự thật cho sự thật.
Sự thật đầu tiên tôi muốn trình bày ở đây là: Trong cuốn "Giặc Thầy Chùa II", trang 429 - 431 ông Đặng Văn Nhâm đã in về những điều không tốt về tôi và những điều này theo ông Nhâm, do một "tăng sĩ" "tiết lộ". Tôi phải viết Hoa ở đây để đặc biệt nhấn mạnh là, TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU NÓI XẤU TÔI TRONG CÁI GỌI LÀ "BẠCH THƯ" KÝ TÊN BỞI "TT THÍCH NGUYÊN TRÍ" TRONG GIẶC THẦY CHÙA II LÀ HOÀN TOÀN SAI. Với tất cả danh dự và trách nhiệm, tôi khẳng định: Đó là một sự bôi nhọ trắng trợn vô ý thức và đầy ác kiến. Nếu kẻ xấu tìm cách bôi nhọ tôi trưng dẫn bất cứ bằng chứng nào để chứng minh về những cái mà họ xuyên tạc, bôi nhọ tôi trong "Bạch Thư" nói trên là đúng thì ngay lập tức tôi sẵn sàng sám hối và từ bỏ tất cả những nhiệm vụ tôi đang đảm trách kể cả chiếc áo tu sỹ, vì tôi quan niệm, đã là một kẻ bất xứng thì không thể gánh vác những trọng trách dù Đời hay Đạo. Một lần nữa, tôi khẳng định những điều viết về tôi trong "Bạch Thư" ký tên "TT Thích Nguyên Trí" in trong "Giặc Thầy Chùa II" là hoàn toàn hư cấu, không thật.
Một bài viết gần đây ký tên Trần Lý xuyên tạc rằng, tôi chỉ " .... ở tù 1 năm vì tội vượt biên" và Trần Lý còn viết: "….Thượng tọa Viên Lý bảo lãnh 2 anh em ruột và 5 huynh đệ đồng môn từ Việt Nam qua Mỹ ..."
Tôi phải nói thẳng rằng: Trần Lý hoàn toàn SAI. Tôi bị Cọng sản Việt Nam bắt nhốt tất cả 3 lần, tổng cọng gần 3 năm. Năm 1976 tôi bị Công an bắt nhốt vì thi hành Phật sự tại Phú Bổn do Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bổ nhiệm và, 2 lần khác bị bắt vì "tội" vượt biên chứ không phải chỉ "ở tù 1 năm vì tội vượt biên" như Trần Lý nào đó đã xuyên tạc sự thật. Tôi từng bị Công an tra tấn, đánh đập đến bất tỉnh, cũng đã bị giam ở khám Chí Hòa, ở các Trung Tâm cải huấn cũ của Phú Yên, Bình Định, đã từng bị nhốt vào xà lim, bị còng tay, bị cùm chân và bị đưa đi lao động khổ sai ở trại Khánh Sơn và Đồng Phú I nơi mà CSVN gọi là "Trại học tập cải tạo". Tất nhiên, thời gian tù tội của tôi không nhiều như những vị sĩ quan hoặc những công chức của quân lực Việt Nam Cọng Hòa và một số Tôn đức, Phật tử, do vậy tôi không xem việc tôi ở tù dưới thể chế độc tài như một “thành tích” mà chỉ xem đó như một bất hạnh của đất nước đang bị thống trị bởi guồng máy độc tài, phi pháp.
Tôi đã bảo lãnh một số huynh đệ - những Tăng sỹ đồng chơn xuất gia và không ai trong số các vị ấy làm việc cho Cọng sản, ngược lại họ quyết tâm chống lại chủ nghĩa ngoại lai và chế độ độc tài toàn trị, đồng thời hết lòng phụng sự Giáo hội với tất cả khả năng và kinh nghiệm của mình. Tôi rất hoan hỷ vì đã bảo lãnh quý Thầy ấy. Tôi hoan hỷ vì tôi đã giúp quý thầy ấy có cơ hội thoát khỏi sự kềm kẹp vì phải sống dưới một chế độ độc tài trong thời gian khá lâu. Tôi không chút mảy may mặc cảm về việc bảo lãnh này. Tôi cho rằng việc làm này là một bổn phận và trách nhiệm của những người đi trước. Nếu điều kiện cho phép, tôi còn muốn bảo lãnh tất cả những ai không thích sống dưới chế độ vô thần của Cọng sản để giúp họ hưởng được tất cả quyền làm người và sống trong một xứ sở tự do dân chủ đích thực. Là một thuyền nhân tỵ nạn Cọng sản, tôi thâm cảm cái ước vọng thầm kín của những đồng bào đang sống thiếu tự do tại quê nhà. Quý vị nghĩ sao khi chúng ta bảo lãnh những người thân của mình sang sinh sống và hành đạo ở một đất nước tự do như Hoa kỳ? Vô lẽ bảo lãnh người thân của mình sang định cư nơi một đất nước tự do, thoát khỏi sự khống chế của Cọng sản là một cái tội? Họ cho rằng quý Thầy do tôi bảo lãnh chưa có thẻ xanh, vô lẽ những người chưa có thẻ xanh đều là những người không tốt? Chúng ta nghĩ sao về những người sang Mỹ trên 30 năm, hoặc có thẻ xanh hoặc đang là công dân Hoa Kỳ nhưng lại về Việt Nam thường xuyên thậm chí còn cọng tác với CS để làm hại đồng đạo, đồng bào?
Kẻ xấu còn đồn đại rằng: "chùa Điều Ngự là do CS chi tiền để mua, chùa Điều Ngự là CS " và “là trung tâm quy tụ của nhóm Cần Lao, của đám theo thời thừa gió bẻ măng”. Những kẻ xấu này đã xuyên tạc sự thật. Chùa Điều Ngự hiện là Trụ sở của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ, một Giáo hội đang chống lại chế độ độc tài Cọng sản và tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền. Cọng sản thường tìm cách đồng hóa những cá nhân và tổ chức chống Cọng để vô hiệu hóa, thế nhưng, quần chúng thầm lặng hiểu rất rõ bản chất ác hiểm của Cọng sản nên Cọng sản càng tuyên truyền nói xấu chùa Điều Ngự bà con đồng hương, Phật tử càng về chùa Điều Ngự đông hơn, đồng thời càng sát cánh với chư Tăng, hỗ trợ chùa Điều Ngự trong mọi Phật sự. Tôi xin minh định rằng, tiền mua chùa Điều Ngự là tiền do quý Phật tử cúng dường để xây dựng tu viện Bảo Pháp, nhưng, vì Giáo Hội cần có một cơ sở tại quận Cam để đáp ứng lòng mong cầu của mọi giới Phật tử nên tôi đã dùng tiền xây dựng TV Bảo Pháp để tạo mãi ngôi chùa Điều Ngự. Chùa Điều Ngự không là “Trung tâm quy tụ của nhóm Cần Lao, của đám theo thời thừa gió bẻ măng” như các thế lực xấu ác xuyên tạc.
Điều đáng lưu ý là, Hoa Kỳ và thế giới nhân loại đang đối diện với nạn khủng bố hết sức nghiêm trọng. Cái mà Phật giáo có thể đóng góp được cho thời điểm có nhiều đe doạ và bất an hiện nay chính là tâm từ bi và tuệ giác siêu việt. Không bất cứ Phật tử chân chính nào muốn thấy có những trùm khủng bố vì bất đồng chính kiến hay tôn giáo xuất hiện từ Phật giáo. Tất nhiên, những thế lực xấu đã và đang chủ trương xúi dục hận thù giữa các tôn giáo nhằm giúp họ hoàn tất chính sách tiêu diệt các tôn giáo một cách dễ dàng. Dưới sự lãnh đạo đầy kinh nghiệm và trí tuệ của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống và Đại lão Hòa thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo đã và đang là nạn nhân của các thế lực manh động nhưng chưa và sẽ không bao giờ tự biến mình thành công cụ của các trò chơi chính trị.
Tôi cầu nguyện cho những người xuyên tạc, bôi nhọ chùa Điều Ngự vì bất cứ lý do gì, sớm tỉnh thức, ăn năn sám hối để tránh đọa vào ba đường dữ.
Có một số bài viết của những kẻ nặc danh cho rằng tôi “đã cấu kết với nhóm người VPII-VHĐ để thao túng GH qua các sắc lệnh: Giáo Chỉ Số 2… Giáo Chỉ Số 9… Thông Bạch Thi Hành Giáo Chỉ Số 9… Quyết Định 31… Thông bạch Tiếm Danh ….” Đây là luận điệu của những người đã đánh mất sự tỉnh táo. Họ viết như thế là họ coi thường khả năng, đức độ, kinh nghiệm cũng như hạnh nguyện cao vời của hai bậc cao Tăng thạc đức đương đại: Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống và Đại lão Hòa thượng Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hóa Đạo. Trên thực tế, tôi chỉ đáng là học trò của hai Ngài, làm sao tôi có thể qua mặt hai Ngài như họ nghĩ. Ai cũng thừa biết là cả guồng máy cai trị bằng bạo lực, Cọng sản Việt Nam dùng đủ phương chước để cưỡng bức nhị vị Đại lão Hòa thượng tuân theo ý họ, thế nhưng, suốt nhiều thập niên, Cọng sản Việt Nam đã thất bại vì không thể khuất phục được hai Ngài huống gì tôi, một kẻ chỉ đáng theo hầu hai Ngài. Khi còn trụ thế, qua lời Chúc Tết, đức cố Đệ Tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, bằng chính giọng nói của mình, Ngài đã ân cần huấn thị“ Tôi gởi lời khen ngợi chư kiệt vị đã tận tình hoằng dương chánh pháp nơi các xứ sở xa xôi, đồng thời vẫn nhất tâm hậu thuẫn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại quê nhà. Đặc biệt chư quý liệt vị đã chí thành khâm tuân và thi hành Giáo Chỉ số 9 do tôi ban hành và các Thông Tư, Thông Bạch của Viện Hoá Đạo nhằm chấn chỉnh và phát huy Giáo Hội trước tình thế mới cũng như làm rạng danh hai nghìn năm Phật giáo Việt Nam …”.
Qua lời huấn thị trên của đức cố Đệ Tứ Tăng Thống, tự nó đã nói lên tất cả lý do tại sao Giáo Chỉ số 9 đã được ban hành. Rất tiếc, một sự thật lịch sử quan trọng như thế vẫn bị các thế lực xấu tiếp tục xuyên tạc. Tôi luôn tin rằng, xuyên tạc sự thật không chỉ là cách tự kết liễu uy tín của mình mà còn là một tội ác.
Viết đến đây, tôi tự hỏi là, họ dùng nặc danh, viết bài bôi nhọ Giáo hội để được gì ngoại trừ tự phản ánh cái tâm bất chính và phá nát Giáo hội đúng như đảng và nhà nước Cọng sản Việt Nam mong muốn, chủ trương?
Điều cần nói thêm ở đây là, theo nhận định mới nhất của Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN được phổ biến vào ngày 04 tháng 12 năm 2009, do Đại lão Hoà Thượng Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hoá Đạo ký thì:
“Giáo Chỉ Số 09, do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ban hành ngày 8.9.2007, đã cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cần phải được phát huy toàn diện để đáp ứng với công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay.”
Nhận định trên của Hội Đồng Lưỡng Viện, một lần nữa xác tín sự khâm tuân triệt để của toàn thể thành viên Giáo hội đối với giáo Chỉ số 9 do đức Đệ Tứ Tăng Thống ban hành.
Bản chất tự nhiên của con người là cảm nhận nỗi mất mát nào đó trước những thay đổi bất chợt, nhưng nếu tỉnh giác nhìn thẳng vào sự thật ta sẽ thấy những biểu hiện cần thiết về lập trường nhất quán cố hữu của Giáo hội xuyên qua Giáo Chỉ số 9 sau nhiều thập niên Giáo hội bị đàn áp, đánh phá khốc liệt từ mọi phía.
Dưới hình thức nặc danh, họ còn viết bài cật vấn Văn Phòng II Viện Hóa Đạo rằng, tại sao một Giáo Hội đông người như thế, bây giờ chỉ còn chừng ấy vị? Một câu hỏi khá tinh vi, có thể khiến một số người không nắm vững tình hình Giáo Hội cho là chí lý; thực ra, đó chỉ là cách hỏi để trốn tránh trách nhiệm, vì người nêu câu hỏi này không hiểu lý duyên sanh và tự xem họ như người ngoại cuộc, không liên hệ và có chút trách nhiệm nào đối với những biến động nói trên. Câu hỏi đặt ra ở đây là, những ai là người đã bỏ Giáo hội truyền thống để lập những tổ chức và Giáo hội khác nhằm tạo sự phân rã, suy yếu Giáo hội giữa lúc đất nước và Phật giáo đang lâm quốc nạn và pháp nạn? Vả lại, phải chăng chính nghĩa chỉ là những con số? Không. Tuyệt đối không. Vì hiện nay, Giáo hội do nhà nước Cọng sản Việt Nam thành lập thường tự hào là họ có trên 40,000 Tăng ni và nhiều ngàn Tự viện. So với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất họ là số đông, nhưng điều đó không có nghĩa cái số đông ấy của Giáo hội nhà nước thuộc về chính nghĩa.
Giả thuyết rằng, điều mà những người nặc danh viết là đúng thì rõ ràng đây là một thương tổn lớn đối với bản thân họ, lý do là, họ luôn cho họ là số đông, có đầu óc, như vậy, cái số đông có đầu óc ấy làm gì mà để một thiểu số khuynh loát, lèo lái họ không phải trong một thời gian ngắn mà đến suốt trên 15 năm nhất là Giáo hội không có vũ khí, nhà tù, công an và quân đội?
Do vậy, con số chỉ là con số nếu con số ấy đã tự mình biến thành công cụ cho thế lực phi và phản dân tộc. Số đếm của phép tính, thời và không gian có đổi thay nhưng chân lý thì không bao giờ thay đổi.
Kẻ nặc danh còn xuyên tạc là, tôi đòi đập guốc lên đầu Hòa thượng Mãn Giác và tát tai Hòa thượng Thiện Ấn. Điều này đúng không? Xãy ra ở đâu và lý do tại sao? Thật là một vọng ngữ không thể tưởng tượng được. Khi xuyên tạc việc trên, họ đã khinh thường hai vị Hòa thượng một cách quá đáng.
Chưa hết, những kẻ nặc danh này còn xuyên tạc rằng, tôi đã bỏ tiền ra để thuê người đi biểu tình, Website "Bảo Vệ Chánh Pháp" là của tôi, của Chùa Điều Ngự và của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo. Họ viết mà bất chấp lẽ phải và sự thật, điều này càng làm tôi cảm thấy tội nghiệp cho họ nhiều hơn. Tôi mong là họ đưa ra những bằng chứng cụ thể, chứ cứ tưởng tượng rồi viết sai sự thật như thế chỉ tạo thêm sự phản cảm đối với người đọc.
Chưa hết, những thế lực xấu còn nỗ lực tuyên truyền rằng, đấu tranh chống lại Cọng sản để đòi hỏi tự do, nhân quyền, dân chủ và phục hồi pháp lý của Giáo hội là hành động tự húc đầu vào tường, thiếu khôn ngoan và chỉ chuốc hoạ vào thân. Từ ngàn xưa, ai trong chúng ta cũng hiểu rằng, lịch sử truyền bá chánh pháp là một lịch sử của sự phụng hiến chứ không là chiếm đoạt, vụ lợi. Tất cả hành hoạt của người Phật tử chân chính là cho và vì phúc lợi lâu dài của tha nhân, chứ tuyệt đối không nhắm đến quyền lợi riêng tư dù biết rằng sự dấn thân cứu đời là một thiệt thòi, hy hiến lớn. Trong hạnh nguyện Bồ tát, tuyệt đối không có vấn đề tính toán cũng chẳng mảy may mong cầu chút ít lợi danh, vì hơn ai hết, người Phật tử chân chính liễu triệt rằng, mọi hiện tượng trên thế gian đều huyễn hóa, tất cả chỉ là giả danh, vô thường, tạm bợ. Trong tâm của các sứ giả Như lai chỉ biết phục vụ và phục vụ, đồng thời xem những trách vụ là một sứ mệnh chứ không là một chức quyền cần cố bám lấy. Chính cái thân mệnh của mình mà còn hy hiến sá gì đến những hư danh? Phải chăng vì quá khôn ngoan tính toán hơn thua mà một số vị đã đưa Giáo hội đến chỗ phân liệt, suy yếu?
Là Tổng Thư Ký của một Giáo Hội, đứng giữa những quan kiến dị biệt, trong khả năng có thể, tôi cố gắng hết sức để tìm cách gắn kết mọi khuynh hướng nhằm duy trì sự thống nhất cần có giữa thế giới đa cực trước thời đại và ngưỡng cửa của thế kỷ 21. Tôi cũng cố gắng để không bị lôi cuốn bởi một nhóm người chủ trương thỏa hiệp với Cọng sản để làm giáo dục, từ thiện, xã hội, văn hóa v.v… vì nhiều lý do; tuy nhiên, tôi ý thức cách sâu sắc rằng, dù cố gắng cách nào, tôi cũng không thể hành xử tùy tiện theo kiểu xã giao để thỏa lòng những người khó tánh. Ngược lại, trong thời điểm Giáo Hội đối diện nhiều chướng nạn, điều đệ nhất quan trọng là, cần vượt qua mọi thách đố để duy trì kỷ cương, truyền thống và bảo vệ mạng mạch của Giáo hội, chứ tuyệt đối không thể vì khó khăn hay lợi dưỡng mà chạy theo những thế lực ác. Trong mắt họ, tôi và một số vị khác trong Giáo hội là lực cản trước lộ trình hướng đến thỏa hiệp và những toan tính tái cấu trúc Giáo hội với một dàn nhân sự dễ sai khiến. Chính đấy là lý do tại sao tôi và một số Tôn đức, Cư sỹ khác bị xem như những kẻ cần lên án.
Những người có chủ trương nêu trên đã tìm đủ mọi cách, tung ra những tuyên truyền thất thiệt, bôi nhọ quý Tôn đức lãnh đạo Giáo hội và những người có lòng với đất nước, dân tộc để gây hoang mang trong dư luận quần chúng.
Dù tri nhận rõ thực tế phũ phàng này, nhưng chúng tôi không thể xoay lưng với thầy tổ và nỗi khổ của cả dân tộc để tìm cách thỏa hiệp trong ý hướng đi tìm một chổ đứng yên ắng và có lợi cho bản thân.
Lời cuối tôi muốn thưa ở đây là, vì kính trọng những người đã dành cho Giáo hội và cá nhân tôi sự tin tưởng, thương mến, tôi phải nói lên một số sự thật chứ trong tận thâm tâm, tôi không muốn mất thì giờ vì những bài viết thiếu trách nhiệm của những kẻ nặc danh, lý do những kẻ nặc danh đã không chứng tỏ được sự đứng đắn, lương thiện của họ. Tôi viết là viết cho nhũng người hết lòng vì đạo và dân tộc chứ không nhằm đối chất với những kẻ xấu đã xuyên tạc, bôi nhọ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Văn Phòng II Viện Hóa Đạo.
Tôi cũng xin đặc biệt nhấn mạnh rằng, đạo Phật là đạo thể hiện tinh thần tự do cách toàn triệt, với một căn bản tự do tuyệt đối như thế, tất nhiên mỗi người có quyền tự chọn cho mình cách đóng góp theo khả năng có thể, tuy nhiên, vu khống, bôi nhọ, xuyên tạc kẻ khác vì người ấy không cùng cách suy nghĩ và hành động như mình là vô tình hay cố ý tự huỷ báng chính mình và xem thường sự hiểu biết của người khác.
Nếu những kẻ ấy là người thật sự thương Giáo hội, muốn góp phần xây dựng Giáo hội như họ tuyên bố, họ đã không thể nhẫn tâm viết bài đánh phá Giáo hội tàn nhẫn như một kẻ “Nhất xiển đề”. Nếu họ là người thật sự muốn Phật pháp hưng long, đức tin của mọi người ngày một tăng triển, họ đã không viết lách, hành xử như những người thiếu ý thức, vô trách nhiệm.
Giữa bối cảnh đức tin của quần chúng Phật tử ngày một bị xói mòn vì có quá nhiều tin tức nóng bỏng về những hành trạng bất xứng xảy ra ở một số địa phương, tôi tự dặn lòng là hãy cố gắng nghĩ tốt về họ, nhưng, trong tư cách của một tu sỹ, tôi không thể không tìm giải pháp thù ứng có khả năng thay thế và xây dựng.
Nhìn pho tượng bất động nhưng toát lên hào quang đầy từ bi, trí tuệ và hùng lực của đức Phật, tôi kiền thành đảnh lễ Ngài với tất cả quyết tâm là sẽ dấn thân hơn nữa cho sự trường tồn của chánh pháp và dân tộc.
ThíchViên Lý
[1] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Chương thứ 8

Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Thông bạch Tổng kết Phật sự

THÔNG CÁO BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 8.12.2009
Thông bạch Tổng kết Phật sự cùng Quyết nghị lập trường của Hội đồng Lưỡng Viện Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất – Tri ân công đức và Phúc trình cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung của Tổng vụ Từ thiện Xã hội


PARIS,ngày 8.12.2009 (PTTPGQT) - Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Xử lý Thường vụ Viện Tăng thống kiêm Viện trưởng Viện Hoá Đạo đã triệu tập Hội nghị mở rộng của Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng thống và Viện Hoá Đạo) tại chùa Giác Hoa, thành phố Saigon, nhằm tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2007- 2009, thảo luận phương hướng và hành động cho nhiệm kỳ 2009- 2011, và cung thỉnh nhân sự Lãnh đạo Hội Đồng Lưỡng Viện nhiệm kỳ mới.

Nhưng điều đáng lưu tâm từ 8 giờ sáng ngày thứ sáu 4.12, toàn bộ khu vực chùa Giác Hoa đều bị cắt sóng Internet, điện thoại cho đến 17 giờ chiều. Hàng chục công an, cán bộ các ngành, các giới cũng đến rất sớm để quan sát, theo dõi. Công an bao vây từ đầu hẽm, vào đến trong chùa. Từ Chánh điện đến nhà bếp, công an túc trực trong tư thế sẵn sàng đàn áp, sách nhiễu hoặc chống biến động.

Dù vậy 40 chư Tăng và 10 Cư sĩ đại diện các tỉnh thành miền Trung và miền Nam đều tề tự đông đủ về chùa Giác Hoa, ngoại trừ Ban Đại diện miền Bắc không về được. Trong phần phúc trình Phật sự nhiệm kỳ qua, các Ban Đại diện cho biết mấy ngày trước đó công an đã đến doạ các thành viên không được về dự Hội nghị tại chùa Giác Hoa, vì sẽ có nhiều chuyện “không tốt” xẩy ra. Nhưng các Ban Đại diện không chấp hành sự ngăn cấm phi pháp của công an.

Sau một ngày thảo luận và chung quyết, mục đích của Hội nghị đã được hoàn thành viên mãn. Vào lúc bế mạc, tất cả thành viên tham dự đã đồng ý ban hành những Nhận Định và Quyết Nghị của Hội nghị để cho thất chúng Phật Tử y cứ, nương tựa phụng hành.

Đại hội đưa ra 6 nhận định về thế đứng lịch sử của Giáo hội trước chủ trương đàn áp, phân hoá, cô lập của nhà đương quyền Cộng sản, cũng như trước hiện tình ngoại bang xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, và xác định Giáo chỉ số 9 của Đức cố Tăng thống ban hành ngày 8.9.2007 “đã cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cần phải được phát huy toàn diện để đáp ứng với công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay”.

Sau sáu nhận định nói trên, là Quyết nghị 15 điểm trên 3 lĩnh vực : Đối với các Cấp Lãnh Đạo Giáo Hội, Đối Với Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam, và Đối với thất chúng Phật tử.

Dưới đây là nguyên văn bản Thông bạch số 10 của Hội đồng Lưỡng Viện :


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, P. 15, Q. Phú Nhuận, TP. Sài gòn
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch 2553 Số : 10/HDLV/TB/XLTV


THÔNG BẠCH
về Hội nghị tổng kết Nhiệm Kỳcủa Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất


Hôm nay, ngày 04 tháng 12 năm 2009 tức là ngày 18 tháng 10 năm Kỷ Sửu -
Phật Lịch 2553 tại Chùa Giác Hoa,Thành phố Sài gòn.
Hội nghị mở rộng Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã khai diễn, mục đích :

- Tổng kết hoạt động nhiệm kỳ 2007- 2009.
- Thảo luận phương hướng và hành động cho nhiệm kỳ 2009- 2011.
- Cung thỉnh nhân sự Lãnh Đạo Hội Đồng Lưỡng Viện nhiệm kỳ mới.

Sau một ngày thảo luận và chung quyết, mục đích của Hội nghị đã được hoàn thành viên mãn. Trước khi bế mạc, tất cả thành viên tham dự đã đồng ý ban hành những Nhận Định và Quyết Nghị của Hội nghị để cho thất chúng Phật Tử y cứ, nương tựa phụng hành :


NHẬN ĐỊNH


1/. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất là Giáo Hội truyền thừa của Lịch Đại Tổ Sư trong dòng lịch sử 2000 năm Phật Giáo Việt Nam. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không ký thác sinh mệnh của mình vào bất cứ một Triều Đại, một Chính Thể nào. Vận mệnh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất luôn gắn liền vào vận mệnh Dân Tộc qua các thời kỳ thăng trầm của lịch sử.

2/. Ngược lại, các tổ chức nhân danh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất mà không kế thừa sự nghiệp của Lịch Đại Tổ Sư, tự ý tách rời khỏi vận mệnh Dân Tộc để làm công cụ cho thế quyền đều là các Giáo Hội không chính danh. Các Giáo Hội nầy không nằm trong sự lãnh đạo của Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, theo tinh thần Hiến Chương đã được tu chỉnh bởi Đại Hội Kỳ 5, ban hành ngày 12/12/1973.

3/. Vì gắn liền với vận mệnh Dân Tộc cho nên 34 năm qua các thế lực phi dân tộc do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo, đã tìm mọi cách để tiêu diệt Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam đang dùng một phương thức tinh vi hơn, đó là kế hoạch dùng Tăng sĩ đánh phá Tăng sĩ để bức tử các cấp lãnh đạo Giáo Hội, dùng Giáo Hội không chính danh, đánh phá Giáo Hội truyền thống để bức tử Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, loại trừ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra khỏi cộng đồng Dân Tộc.

4/ Vì gắn liền với vận mệnh Dân Tộc, Giáo hội đang phải đối diện với chế độ độc tài toàn trị của Đảng Cộng Sản, là chế độ đưa xã hội Việt Nam đến vực thẳm của những sự phá sản trên các lĩnh vực đạo đức, luân lý, tự do, dân chủ, công bằng và hạnh phúc của sinh dân hiện nay, nên công cuộc vận động đòi hỏi pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất luôn gắn liền với việc vận động đòi hỏi công lý cho Dân Tộc, đòi hỏi độc lập, tự do, nhân quyền và dân chủ cho 85 triệu người dân Việt Nam.

5/.Vì gắn liền với vận mệnh Dân Tộc, nên khi phải đối diện vấn nạn Trung Cộng ngang nhiên xâm phạm nghiêm trọng lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam, giết hại, giam cầm, cướp bóc ngư dân Việt Nam, cũng như sự kiện Nhà cầm quyền Việt Nam ngăn cản, bắt giam, khủng bố, đánh đập các sinh viên, học sinh, nhà văn, nhà báo, trí thức... biểu tình ôn hoà, bày tỏ lòng yêu nước, bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa trước các Lãnh sự quán Trung Quốc, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hậu thuẫn toàn dân lên án tập đoàn bá quyền bành trướng Bắc Kinh, đồng thời lên án hành động bán nước, hèn nhát của Đảng Cộng Sản Việt Nam đang đưa 85 triệu con dân Việt Nam vào vòng nô lệ.

6/. Giáo Chỉ Số 09, do Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ban hành ngày 8.9.2007, đã cứu nguy mạng mạch của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cần phải được phát huy toàn diện để đáp ứng với công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay.

Từ những nhận định trên đây, tất cả thành viên tham dự Hội nghị đồng thanh quyết nghị :


QUYẾT NGHỊ


I/. Đối với các Cấp Lãnh Đạo Giáo Hội :

I.1/. Để lãnh đạo thất chúng Phật tử đi đúng đường hướng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất trong giai đoạn hiện nay, Hội Nghị đã thông qua danh sách nhân sự cung thỉnh vào Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN nhiệm kỳ 2009-2011.

I.2/. Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cương quyết thể hiện tinh thần Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã ban hành và tu chỉnh bởi Đại Hội Khoáng Đại Kỳ 5, ngày 12/12/1973.

I.3/. Hội Đồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, quyết tâm thực hiện Di Chúc của Đức Cố Đệ Tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, lãnh đạo thất chúng Phật tử, thực hiện công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn hiện nay.

II/Đối Với Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam :

II.1/. Đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải trả lại Pháp Lý sinh hoạt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, trước mắt là phải giải quyết lập trường 4 điểm đã được Viện Hóa Đạo đề xuất :

Thứ nhất : Nhà nước CHXHCNVN phải phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Thứ hai : Hoàn trả Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất toàn bộ đất đai tài sản, các cơ sở chùa viện, văn hóa, giáo dục, từ thiện, viện đại học... mà nhà nước CHXHCNVN đã chiếm dụng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất sau năm 1975. Bước đầu là giao trả hai cơ sở : Việt Nam Quốc Tự và Trung Tâm Văn Hóa Quảng Đức tại Sài Gòn.

Thứ ba : Đưa “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam” mà Đảng Cộng Sản và nhà nước CHXHCNVN thành lập năm 1981, ra khỏi Mặt trận Tổ quốc, một cơ quan ngoại vi của đảng Cộng sản.

Thứ Tư : Làm sáng tỏ cái chết của Hòa Thượng Thích Thiện Minh, Cố Vấn Chỉ Đạo Viện Hoá Đạo, tại trại giam Hàm Tân thuộc tỉnh Bình Thuận năm 1978.

II.2/. Trước sự xâm lăng của Bắc phương, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đòi hỏi Nhà cầm quyền Cộng Sản phải chấm dứt mọi hợp tác với Trung quốc về việc khai thác bauxit ở Tây nguyên cũng như các công trình trọng điểm khác trên toàn quốc, vì các nơi này tiềm ẩn nhiều hiểm hoạ về môi trường và nhất là nguy cơ về an ninh quốc phòng. Đồng thời phải cấp thị thực nhập cảnh cho các du khách Trung quốc và kiểm soát chặt chẽ, chứ không thể cho phép họ tự do ra vào Việt Nam như lâu nay.

II.3/. Nước Việt Nam là của Dân Tộc Việt Nam, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đòi hỏi Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chấm dứt ngay những toan tính bán rẻ đất nước, bán rẻ dân tộc, bán rẻ tinh thần bất khuất của Cha Ông, cúi đầu nô lệ Trung Cộng để đổi lấy sự tồn tại của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

II.4/. Đã đến lúc, Nhà cầm quyền Việt Nam phải biết lắng nghe, suy ngẫm và thực hiện lời khuyên bảo của các bậc tiền bối :

- Trúc Lâm Đại Sa Môn khuyên bảo Vua Trần Thái Tông : “Phàm là đấng quân vương, hãy lấy ước muốn của thiên hạ làm ước muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình, xin bệ hạ chớ quên điều ấy”.

- Đức cố Đệ tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại lão Hoà thượng Thích Huyền Quang : “Xin chư vị lãnh đạo nước nhà hôm nay, hãy can đảm nhìn thẳng vào sự thật của hiện tình đất nước, nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình trước nhân dân và lịch sử ; hãy đặt quyền lợi của dân tộc và sự phát triển quốc gia lên trên hết ; chư vị hãy lắng nghe ý kiến, tôn trọng và chia xẻ tâm tư nguyện vọng của hơn 80 triệu dân, để có thể chung sức xây dựng đất nước, sớm đưa toàn dân thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu, chặn đứng sự băng hoại về tinh thần và đạo đức trong xã hội, mà công luận và các bậc thức giả đã nhiều lần cảnh báo”.

Và, tiến đến thiết lập một Nhà nước Dân chủ, Tự do, tam quyền phân lập, theo Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự và Chính Trị của Liên Hiệp Quốc mà Việt Nam đã ký kết.

III/. Đối với thất chúng Phật tử :

III.1/. Cương quyết nghiêm trì giới luật để phát huy sứ mạng Hoằng Pháp lợi sinh, vì Giới luật là thọ mạng của Chánh Pháp.

III.2/. Cương quyết thực hiện hạnh Tinh Tấn, Dõng Mãnh, Kiên Trì, Nhẫn Nhục và bất khuất, để phát huy Định Lực vì Định Lực là bản thể của Tuệ Giác.

III.3/. Cương quyết thực hành đường lối của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để đẩy mạnh công cuộc giải trừ Quốc Nạn và Pháp Nạn, vì đường lối của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chính là lý tưởng bảo vệ vẹn toàn tổ quốc, độc lập tự chủ ; dân tộc an cư lạc nghiệp trong một thể chế đa nguyên pháp quyền. Trước mắt là thực hành lời kêu gọi “ TẨY CHAY HÀNG HÓA TRUNG QUỐC ” của Đại Lão Hòa Thượng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống kiêm Viện Trưởng Viện Hoá Đạo, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ban hành ngày 03/10/2009. Đây, không là chủ trương chống nhân dân Trung quốc, mà là thái độ cần thiết, bày tỏ mối bất bình của 85 triệu con dân Việt Nam trong và ngoài nước, trước những hành động bất minh thô lậu của hai đảng Cộng Sản Việt Nam - Trung Quốc. Nên nhớ cho rằng, mối liên hệ “16 chữ vàng và 4 tốt” giữa 2 đảng Cộng sản Việt-Trung chỉ là những gông cùm, xiềng xích đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Chớ nên ỷ thế mạnh, ỷ tình đồng chí láng giềng, mà xúc phạm tự ái dân tộc !

Phật lịch 2553, Làm tại chùa Giác Hoa, ngày 04/12/2009Thay mặt Hội Đồng Lưỡng ViệnXử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thốngkiêm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN(ấn ký)Sa môn Thích Quảng Độ


Đồng thời với bức Thông bạch số 10 thượng dẫn, Viện Hoá Đạo cũng gửi sang Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến Lời tri ân và Phúc trình cứu trợ nạn nhân bão lụt miền Trung vừa qua của Hoà thượng Thích Không Tánh, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Từ thiện Xã hội. Toàn văn Lời tri ân và Phúc trình được viết như sau :


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
TỔNG VỤ TỪ THIỆN XÃ HỘI - VIỆN HÓA ĐẠO
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------PL. 2553 Số : 011-09/TACĐ/TVT


TRI ÂN CÔNG ĐỨC & PHÚC TRÌNH
CỨU TRỢ NẠN NHÂN BÃO LỤT MIỀN TRUNG NĂM 2009


I/ TRI ÂN CÔNG ĐỨC :

Kính bạch Chư Tôn Đức, Quý Đoàn thể, Tổ chức, Cá nhân, Nam Nữ Phật Tử,

Trong trận bão lụt vừa qua, thâm cảm trước tình trạng khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo - Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - không chính thức kêu gọi cứu trợ. Tuy nhiên một số Đoàn thể, Tổ chức, Ân nhân, nam nữ Phật tử đã ủng hộ tịnh tài về Giáo Hội và cứu trợ nạn nhân bão lụt. Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ đã ủy thác cho Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội THÀNH KÍNH ĐA TA và TRI ÂN CÔNG ĐỨC lên chư tôn Hòa Thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni, cùng Quý Đoàn thể, Tổ chức, Ân nhân, Phật tử đã ủng hộ tịnh tài về Giáo Hội, cũng như hỗ trợ việc Từ thiện xã hội, cứu trợ Đồng bào Nạn nhân bão lụt trong thời gian qua như sau :

Hòa Thượng Thích Trí Lãng chùa Pháp Hoa Đa Bảo (Hoa Kỳ) : 10.300 USD. Hòa Thượng Thích Trí Minh cùng quý Phật tử Chùa Khuong Việt (Na Uy) : 259.337.246đ. TT Thích Viên Lý –VP2.VHĐ (Hoa Kỳ) : 20.000USD. TT Thích Nguyên Thảo và Phật tử Chùa Hoa Nghiêm (Canada) : 14.050CAD. Bà Đặng Thị Danh và ông Nguyễn Giang (cộng đồng người Việt Quốc gia Montreal) : 500USD. Anh Sao Việt (diễn đàn tranh luận Dân chủ - Đức) : 400USD. Anh Đoàn Kim, Khối 1706, cô Bảo Khánh và thính giả VN Sydney Radio : 19.083.000đ. Lực lượng Cư sĩ Chấn hưng Phật giáo - Đạo hữu Tuệ Kiếm :1.150USD. Ông Trần Minh Trí (chúng Duy Ma Cật – Pháp) : 200EUR. Bác sĩ Phan Minh Hiển (Pháp), Ông Nguyễn Công Bằng, Cô Ánh Trinh (radio Hoa Mai), Ký giả Tuyết Mai cùng Quý Thân Hữu… : 2.940USD. BS Trịnh Thúy Mai (Pháp) : 200EUR, BS Ngọc Anh (Pháp) : 200EUR. Ông Mohamet Shaheed (Pháp) : 100EUR. PT. Diệu Huệ : 500.000đ, PT. Nhật Phong : 200.000đ, PT.Diệu Quý 400.000đ. Trần Thị Định PD : Diệu Tánh (Đức) : 50EUR. Huynh trưởng Thiện Thanh – Châu Ngọc Thạch, Diệu Đức – Trần Thị Ngôn cùng thân hữu, thân quyến : 750USD. Ông Nguyễn Thanh Châu PD Chanh Hồng, Nhóm Giác Việt, ông Kristy Ishiyama… 720USD. Bà Cao Thị Liên Hương (Canada) : 900CAD. Ông Hoàng Hữu Thụy : 50USD. Ông Lý Hoàng Minh Đức : 50USD. PT.Diệu Nguyên Hạnh (Úc ) : 600AUD. Ông Phạm Sang ( Hoa Kỳ) : 1.000USD. PT. Diệu Chánh (Hoa Kỳ) : 200USD. Ông Trần Hữu Phước (Canada) : 2.000.000đ. Quý Đồng Hương cùng nhóm Thân hữu Nghệ sĩ Nam Úc và Bác Nguyễn Thủy Nam (Úc) : 13.675AUD – chư Phật tử hai chùa Điều Ngự và Diệu Pháp ở miền Nam California : 13.199 USD.

II/ PHÚC TRÌNH CỨU TRỢ BÃO LỤT MIỀN TRUNG :

Sau cơn bão số 9 tiếp đến số 10 và 11, dưới sự chỉ đạo của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ ; Phái đoàn chúng tôi gồm có : HT Thích Không Tánh, TT Thích Nguyên Lý, TT Thích Quảng Huệ, TT Thích Minh Bá cùng Quý Đại Đức Thích Đồng Thọ, Thích Đồng Tấn, Thích Đồng Hoàng, Thích Quảng Lực, Thích Quảng Hiệp và 15 Phật tử các Chùa Từ Hiếu, Liên Trì, Linh Sơn liên tiếp 3 đợt đi cứu trợ bão lụt tại các Tỉnh : Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Kontum.

Nay xin kính Phúc Trình tổng số tiền đã cứu trợ các Tỉnh trên trong 3 đợt như sau :

Đợt 1 : 183.050.000đ + Đợt 2 : 215.780.000đ + Đợt 3 : 536.832.000đ = 935.662.000đ

Sau ngày cứu trợ đợt 3, Quý Đồng Hương và nhóm Thân hữu Nghệ sĩ Nam Úc có gửi về 13.675AUD = 242.458.000đ và TT Thích Viên Định chuyển qua 135.700.000đ do Quý Phật tử mới ủng hộ. Toàn bộ số tiền này Tổng vụ sẽ tổ chức cứu trợ đợt 4 vào ngày 26/11/09 tại các Tỉnh : Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định.

Nhân đây, Tổng Vụ xin kính lời Cảm Niệm Công Đức Quý Phật tử Chùa Từ Hiếu, Liên Trì, Linh Sơn cùng Chư Tôn Đức Quý Ban Đại Diện và Huynh Trưởng GĐPT các Tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định… đã hỗ trợ cho công việc cứu trợ được viên mãn. Ngoài ra, Quý Phật tử Chùa Từ Hiếu còn ủng hộ riêng cho TT Thích Nguyên Lý 580.339.000đ và một số bánh kẹo để cứu trợ bão lụt. (Số tiền này không tính trong 3 đợt cứu trợ đã nêu trên).

Tổng Vụ chúng con xin kính phúc trình lên Đại lão Hoà thượng Viện Trưởng cùng Chư Tôn Đức Hội Đồng Lưỡng Viện, VP2.VHĐ cùng Quý Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại để kính thẩm tường.

Chùa Liên Trì, Ngày 24 tháng 11 năm 2009
Kính Phúc Trình
(ấn ký)Tỳ Kheo THÍCH KHÔNG TÁNH
(Tổng Vụ Trưởng Từ Thiện Xã Hội – VHĐ)


BC : Nếu có sự thiếu sót tên và số tiền. Kính xin Quý Phật tử, Ân nhân thông báo về Văn phòng Từ Thiện Xã Hội theo E-mail : tuthien.vhd@gmail.com để văn phòng Tổng Vụ Từ Thiện chúng tôi bổ khuyết, điều chỉnh lại. Chân thành cảm ơn.

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009

Lửa Từ Bi


Kính dâng lên Bồ tát Quảng Đức
Vũ Hoàng Chương



Lửa! lửa cháy ngất tòa sen!

Tám chín phương nhục thể trần tâm

hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.

Hai Vầng Sáng rưng rưng

Đông Tây nhòa lệ ngọc

chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc

ánh Đạo Vàng phơi phới

đang bừng lên, dâng lên.



Ôi! Đích thực hôm nay trời có mặt;

giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga!

Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt

nhìn nhau: tình Huynh đệ bao la.



Nam mô Đức Phật Di Đà

Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày

bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;

gọi hết lửa vào xương da bỏ ngõ,

Phật Pháp chẳng rời tay.



Sáu ngả Luân hồi đâu đó

mang mang cùng nín thở,

tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay.

Không khí vặn mình theo

khóc òa lên nổi gió;

NGƯỜI siêu thăng

giông bão lắng từ đây.

Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,

nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề.



Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc

lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;

chỗ NGƯỜI ngồi:

một thiên thu tuyệt tác

trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.



Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?

ngọc đá cũng thành tro

lụa tre dần mục nát

với Thời gian lê vết máu qua đi.

Còn mãi chứ!

Còn Trái-Tim-Bồ-Tát

gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.



Ôi ngọn lửa huyền vi!

thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác

từ cõi Vô minh

hướng về Cực lạc;

vần điệu của thi nhân chỉ còn là rơm rác

và chỉ nguyện được là rơm rác,

THƠ cháy lên theo với lời Kinh

tụng cho Nhân loại hòa bình

trước sau bền vững tình Huynh đệ này.



Thổn thức nghe lòng trái Đất

mong thành quả Phúc về cây;

nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;

đồng loại chúng con

nắm tay nhau tràn nước mắt,

tình thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây.



(Sài-gòn tháng 5, Phật lịch 2507, tháng 6-1963)

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2009

Thông bạch từ Viện Hóa Đạo

THÔNG CÁP BÁO CHÍ LÀM TẠI PARIS NGÀY 21.10.2009
Thượng toạ Thích Viên Định ký Thông bạch kêu gọi hưởng ứng “Lời Kêu Gọi Không dùng Hàng hoá Trung quốc” của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ


PARIS, ngày 21.10.2009 (PTTPGQT) - Thừa uỷ nhiệm Viện trưởng Viện Hóa Đạo, Thượng toạ Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký Viện Hoá Đạo, Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), ký Thông bạch số 9/VHĐ/TB/VT ngày 14.10.2009 hưởng ứng “Lời Kêu gọi Không dùng Hàng hoà Trung quốc” của Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ nhân danh Hội đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN ban hành hôm 3.10.2009.

Thông bạch gửi tới 21 Ban Đại Diện các Miền, Tỉnh, Thành, Quận, Huyện GHPGVNTN trên toàn quốc để kêu gọi sự hưởng ứng. Qua Thông bạch, Thượng toạ Thích Viên Định báo động rằng “Trong trận bão số 09, ngày 27.9.2009, sau khi vào được cảng Hữu Nhật trên đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam để trú bão, 17 chiếc ghe đánh cá của 200 ngư dân thuộc Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã bị linh Trung Quốc, chiếm đóng trên đảo Hoàng Sa, bắn ghe tàu, đánh người, cướp tài sản. Tất cả máy móc, thức ăn, cá mắm trên ghe đều bị cướp sạch hết, may mắn lắm, ngư dân mới thoát chết, vì không còn phương tiện để định vị, liên lạc ngoài biển khơi trong cơn bảo tố, có ghe chạy lạc vào tận cảng Qui Nhơn”.

“Năm 2005, 2006, ngư dân Thanh Hoá ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt người bị thương, cướp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên biển Đông, bắt tàu thuyền, ngư dân Việt Nam, đòi tiền chuộc…

“Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam toàn diện và khắp nơi, từ lãnh thổ phía Bắc, sang Tây nguyên, xuống các hải đảo Hoàng sa, Trường sa ở biển Đông ; từ tư tưởng, văn hoá, chính trị, đến kinh tế. Hoạ mất nước đang đến từng ngày, từng giờ”.

Xin mời quý độc giả đọc dưới đây toàn văn bản Thông bạch. Chúng tôi cũng xin lỗi loan tải trễ Thông bạch này, vì hơn một tuần lễ qua máy vi tính của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế bị hỏng nên không nhận cũng như không gửi đi được các E.mail cần thiết.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤTVIỆN HÓA ĐẠO
Thanh Minh Thiền Viện, 90 Trần Huy Liệu, Phường 15, Quận Phú Nhuận, TP Saigon
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Phật lịch 2553 Số 09/VHĐ/TB/VT


Thông Bạch
(Trích yếu : V/v hưởng ứng Lời Kêu Gọi “Không Dùng Hàng Hoá Trung Quốc”)

Kính gửi :
Ban Đại Diện các Miền, Tỉnh, Thành, Quận, Huyện GHPGVNTN trên toàn quốc.

Kính Bạch chư Tôn đức cùng Quí liệt vị,

Ngày 03.10.2009 vừa qua, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, thay mặt Hội Đồng Lưỡng Viện, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, ký thông bạch, đưa ra Lời Kêu Gọi “Không Dùng Hàng Hoá Trung Quốc”. Lời Kêu Gọi này là tiếp nối Lời Kêu Gọi “Tháng 5 Bất Tuân Dân Sự, Biểu Tình Tại Gia” công bố ngày 29.3.2009, trước nguy cơ mất nước của dân tộc. Nguy cơ này không giống với thời kỳ Bắc thuộc ở những thiên niên kỷ trước. Đây là một cuộc xâm lăng kiểu mới, rất tinh vi, quân dân Trung cộng đang đổ bộ vào chiếm đóng nước ta một cách nhẹ nhàng, êm thắm, qua hình thức trá hình là những công nhân, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu. Một cuộc xâm lăng toàn diện trên các lĩnh vực sinh tử như tư tưởng, chính trị, văn hóa, kinh tế, là trùng điệp vi khuẩn độc hại hoành phá tinh não Việt Nam.

Lời Kêu gọi không dùng hàng hóa, tức tẩy chay hàng Trung quốc, mà Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước hưởng ứng, “không phải là biểu tỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi chống nhân dân Trung quốc, chống công nhân Trung quốc. Vì nhân dân Trung quốc, công nhân Trung quốc cũng là nạn nhân của Đảng Cộng sản như nhân dân, công nhân và nông dân Việt Nam. Tẩy chay hàng Trung quốc là tẩy chay chủ nghĩa bá quyền xâm lược của Nhà cầm quyền Cộng sản Bắc Kinh. Ngoài lý do chính trị mà tẩy chay, còn lý do hàng xấu và hàng độc Trung quốc đang gây nguy hại cho cơ thể và môi sinh người tiêu dùng Việt Nam”.

Trong trận bão số 09, ngày 27.9.2009, sau khi vào được cảng Hữu Nhật trên đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam để trú bão, 17 chiếc ghe đánh cá của 200 ngư dân thuộc Huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã bị linh Trung Quốc, chiếm đóng trên đảo Hoàng Sa, bắn ghe tàu, đánh người, cướp tài sản. Tất cả máy móc, thức ăn, cá mắm trên ghe đều bị cướp sạch hết, may mắn lắm, ngư dân mới thoát chết, vì không còn phương tiện để định vị, liên lạc ngoài biển khơi trong cơn bảo tố, có ghe chạy lạc vào tận cảng Qui Nhơn.

Năm 2005, 2006, ngư dân Thanh Hoá ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt người bị thương, cướp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên biển Đông, bắt tàu thuyền, ngư dân Việt Nam, đòi tiền chuộc…

Trung quốc đã xâm lăng Việt Nam toàn diện và khắp nơi, từ lãnh thổ phía Bắc, sang Tây nguyên, xuống các hải đảo Hoàng sa, Trường sa ở biển Đông ; từ tư tưởng, văn hoá, chính trị, đến kinh tế. Hoạ mất nước đang đến từng ngày, từng giờ.

Lời Kêu Gọi của Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ còn nhắm vào hai Quốc nạn song hành :

“Đồng bào trong và ngoài nước hãy có thái độ trước hai hiện trạng Trung quốc xâm lấn và Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bó tay đầu hàng.

Người dân Việt không có các tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, cũng không có chính quyền hay quân đội để trực tiếp và mạnh mẽ phản chống nạn xâm lăng quân sự, xâm lăng tư tưởng và xâm lăng kinh tế. Vũ khí của người dân bị trị ngày nay là THÁI ĐỘ. Chúng ta cần biểu tỏ qua THÁI ĐỘ để chống hai quốc nạn Nội xâm và Ngoại xâm”.

Viện Hoá Đạo yêu cầu Chư Tôn đức và các Ban Đại Diện GHPGVNTN các Miền, Tỉnh, Thành, Quận, Huyện, tích cực phổ biến, vận động Tăng, Tín đồ Phật tử và tất cả đồng bào Việt Nam hãy biểu tỏ lòng yêu nước, chống ngoại xâm, bằng cách, hưởng ứng Lời Kêu Gọi của Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ : “Không Dùng Hàng Hoá Trung Quốc”.

Công cuộc giải trừ Quốc nạn và Pháp nạn cùng vận động cho Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đặc biệt là thành viên các Ban Đại Diện địa phương, còn phải vượt qua nhiều gian nan, thủ thách.

Kính chúc Chư Tôn đức, quí Ban Đại Diện cùng đồng bào Phật tử, dũng mãnh, tinh tấn trên con đường phụng sự đạo pháp và dân tộc.

Chùa Giác Hoa, ngày 14 tháng 10 năm 2009
T.U.N.Đại Lão Hòa thượng Xử LýViện Tăng Thống
kiêm Viện trưởng Viện Hoá Đạo
Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư kýViện Hóa Đạo, GHPGVNTN
(ấn ký)Thượng Tọa Thích Viên Định

Thứ Năm, 15 tháng 10, 2009

Thứ Năm, 1 tháng 10, 2009

TÔN GIÁO, MỘT NHU CẦU

TÔN GIÁO, MỘT NHU CẦU
KHÔNG THỂ THIẾU TRONG ĐỜI SỐNG


Thích Viên Lý

Tôn giáo là nền tảng căn bản của mọi đạo đức xã hội, thiếu tôn giáo, con người
sẽ biến thành vô cảm, xã hội sẽ loạn động và tệ nạn xã hội là một thảm kịch
không thể tránh khỏi.
Niềm tin tôn giáo có sức tác động mãnh liệt lên sự thăng hóa của xã hội nhân
loại. Chính tôn giáo làm tình người nở hoa, chính tôn giáo khiến đời sống trở
thành ý nghĩa đáng sống; tuy nhiên, nếu nhân danh tôn giáo để áp đặt đức tin của
mình lên người khác, thế giới sẽ rơi vào khủng hoảng, chiến tranh sẽ nổ ra và
con người sẽ biến thành nạn nhân của cái mà mình mệnh danh là thánh thiện. Chính
vì thế, các tôn giáo không chỉ tôn trọng lẫn nhau mà cần họp tác trong những
lãnh vực mà qua đó xã hội sẽ hưởng được những thiện ích không thể thiếu vắng
trong đời sống. Không một ai, dù có đức tin như thế nào, muốn thấy đức tin của
mình bị xúc phạm. Không một ai, sinh ra và lớn lên trong bất cứ truyền thống văn
hoá nào muốn sống dưới sự xung đột, tranh chấp. Khoan dung, hoà ái là đặc trưng
của cái thiện, là biểu tượng của văn minh, dân chủ và tự do.

Muốn xã hội loài người hưởng các quyền công dân bình đẳng thật sự, thế quyền
tuyệt đối không xen vào nội bộ tôn giáo, không dựa vào cách mạng bạo lực để
cưỡng bức tôn giáo, ngược lại bản thân các tôn giáo, bất luận đức tin của mình
như thế nào, cần tận lực phục vụ con người thay vì bắt con người phải phục vụ
cho tôn giáo của mình.
Tại Việt Nam, dưới thể chế độc tài toàn trị, các tôn giáo đã không thể đáp ứng
thỏa đáng nhu cầu tâm linh của quần chúng mà ngay tại hải ngoại, dù có tự do
nhưng vẫn bị Nghị quyết 36 của Cọng sản làm phân rã, lũng đoạn, đây là một thực
tế không thể phủ bác, chính thế, các tôn giáo cần có một tầm nhìn bao dung, tỉnh
giác. Với sức mạnh của sự đoàn kết, chắc chắn các tôn giáo sẽ là giải pháp thay
thế tốt nhất cho hiện trạng đen tối hôm nay trên quê hương Việt Nam thân yêu của
chúng ta.

Tôn giáo là sức mạnh của dân tộc, đàn áp tôn giáo là triệt hủy sức sống của
giống nòi. Ý thức rõ điều đó, trung thành với lý tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa đại
đồng, không biên giới, vô tổ quốc, vì quyền lợi phe nhóm, nhà cầm quyền Cọng sản
Việt Nam đã chẳng những hiến đất, dâng biển cho ngoại bang mà còn tìm đủ kế sách
để tiêu diệt các tôn giáo. Với Cọng sản, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân,
là thế lực nguy hiểm nhất của chế độ, vì tôn giáo có khả năng quy tụ quần chúng
- một sức mạnh đè bẹp mọi sức mạnh mà tôn giáo đang thủ đắc, chính thế, càng
ngày nhà nước Cọng sản càng quyết tâm leo thang chính sách đàn áp tôn giáo của
họ. Nhân danh Chủ nghĩa Xã hội, họ ngang nhiên chiếm đoạt đất đai, tài sản của
các tôn giáo. Bắt giam các hàng Giáo phẩm, cấm đoán mọi sinh hoạt thuần túy tôn
giáo của các Tự viện, Giáo đường, Thánh thất. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất là nạn nhân trực tiếp và lâu dài của thế lực vô minh manh động này trên
suốt nhiều thập kỷ qua. Thế nhưng, việc làm phi pháp của họ đã là động lực thúc
đẩy những người có đức tin mạnh dạn đứng lên để chống lại cái ác, bảo vệ chân
lý, dù phải đương đầu với hiểm nguy, bất trắc. Đây là một phản ứng rất tự nhiên
của con người và đây cũng là nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của các chế độ độc
tài toàn trị không luận là đông hay tây. Lịch sử đã minh chứng, dù mạnh và tàn
bạo đến đâu như Tần Thủy Hoàng hay Adolf Hitler đi nữa, cuối cùng, độc tài đã
phải nhường chỗ cho dân chủ.

Nói đến tuổi thọ của các Tôn giáo là nói đến thiên niên kỷ, ngược lại, chiều dài
lịch sử của các triều đại hay thể chế chính trị chỉ được tính bằng vài ba con
số. Yếu tố nào đã làm cho tôn giáo tồn tại lâu dài? Nhân tố ấy chính là lòng
người. Cái gì đáp ứng được khát vọng sâu thẳm nhất của con người, cái ấy sẽ tồn
tại miên viễn.

Tôn giáo có khả năng chăm sóc đời sống tâm linh của con người nên Tôn giáo chính
là chìa khóa mở ra một quang lộ đầy triển vọng cho thế giới nhân loại, cách
riêng cho dân tộc Việt Nam chúng ta.

Điều đáng lưu ý ở đây là, tôn giáo giữ một vai trò vô cùng quan yếu như thế,
nhưng, chúng ta không nhân danh Tôn giáo mà chính là nhân danh sự khổ đau của
con người, của muôn loại chúng sanh để hành động - hành động là cho và vì phúc
lạc lâu dài của tha nhân chứ không phải cho chính tôn giáo của mình. Cần ý thức
rằng, tôn giáo là sự vận hành của tình thương, một tình thương không biên giới,
là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển tâm linh. Trong nhận ý minh mẫn như thế,
thay vì tiêu cực, chúng ta sẽ tích cực dấn thân. Nhân quả không là một biện
chứng mà chính là một luật tắc. Với luật tắc nhân quả, chắc chắn sự dấn thân
tích cực của chúng ta sẽ mang lại niềm vui đích thực cho tất cả sinh loại.

Trong hoàn cảnh vàng thau lẫn lộn hiện nay, chúng ta cần ý thức thường xuyên mối
hiểm họa của Cọng sản, quyết tâm không để chủ nghĩa Cọng sản hoặc những kẻ cuồng
tín nhân danh Xã hội Chủ nghĩa tiêu diệt khát vọng tự do, nhân quyền và dân chủ
của nhân dân. Sức mạnh mà chúng ta có thể có được đó là sự kết họp, với sức mạnh
tổng họp đó, chúng ta sẽ chận đứng mọi chính sách thù nghịch của Cọng sản và sẽ
mang lại tình thương bao la, một niềm vui bất tận cho thế giới nhân loại.

Thích Viên Lý

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

Thượng tọa Thích Viên Định bình luận việc nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp, trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã

Thượng tọa Thích Viên Định bình luận việc nhà cầm quyền Hà Nội đàn áp, trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã của Sư ông Thích Nhất Hạnh 2009-09-22 PTTPGQT
PARIS, ngày 22.9.2009 (PTTPGQT) - Chư Tăng Ni thuộc giáo phái Làng Mai của Sư Ông Nhất Hạnh ở tu viện Bát Nhã, tỉnh Lâm Đồng, bị đàn áp, trục xuất kéo dài nhiều tháng qua. Dư luận chung lấy làm lạ vì sao trước đây Sư Ông được nhà cầm quyền Cộng sản trọng vọng đón rước, cho phép tự do thuyết pháp từ Bắc chí Nam, mà nay lại đàn áp Tăng thân của Sư Ông ?

Quan hệ hữu hảo giữa Sư Ông và Nhà nước Cộng sản khởi đầu từ cuối thập niên 90, là năm Sư Ông Nhất Hạnh ngỏ ý được về Việt Nam thăm viếng và truyền đạo. Lộ trình chuyến đi hoằng pháp cùng nội dung những bài thuyết pháp từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1999 qua ba thành phố Hà Nội, Huế, Saigon, đã được đệ trình Bộ Văn hóa cộng sản. Nhưng không hiểu vì cớ gì Hà Nội bãi bỏ chuyến đi vào phút chót. Mãi đến ngày 11.1.2005, Sư Ông Nhất Hạnh cùng 100 Tăng thân Làng Mai mới được Hà Nội đánh trống khua chiêng đón rước.

Phải chăng vào thời điểm 2005, Hà Nội bị Hoa Kỳ liệt vào danh sách các quốc gia đàn áp tôn giáo cần đặc biệt quan tâm (CPC, Countries of Particular Concern) mà hệ quả bị chế tài kinh tế và tài chính chiếu theo Đạo luật 1998 bảo vệ tự do tôn giáo của Quốc hội Hoa Kỳ. Chuyến đi này quảng cáo cho thế giới và Hoa Kỳ thấy rằng “không có đàn áp Phật giáo” tại Việt Nam. Nếu có đàn áp, thì sao một Sư Ông và 100 Tăng thân Làng Mai tự do đi lại, thuyết pháp khắp nước ? Công lao của Sư Ông Nhất Hạnh quả đã “cứu bồ” Hà Nội, khi một năm sau, 2006, Tổng thống Bush rút tên Việt Nam ra khỏi danh sách CPC.

Lập trường của Sư Ông Nhất Hạnh đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất cũng như đối với nhà cầm quyền Hà Nội rất rõ, qua tiếng nói của Sư Cô Chân Không, người phụ tá đặc biệt, rồi Sư Ông Nhất Hạnh tuyên bố trước khi rời Pháp đi Việt Nam và khi tới Hà Nội :

Hãng thông tấn AFP đã làm cuộc phỏng vấn Sư Ông và Sư cô tại phi trường Charles De Gaulle ở Paris. Bản tin AFP phát hành chiều ngày 11.1.2005 có đoạn viết rằng : “Nhà sư (tức Sư Ông Thích Nhất Hạnh) không là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, là Giáo hội đang bị chính quyền cấm không cho hoạt động từ năm 1981, vì Giáo hội này từ khước sự kiểm soát và điều khiển của Đảng Cộng sản. Hơn một năm trước đây, Công an Việt Nam đã mở cuộc đàn áp sâu rộng Giáo hội này, hàng giáo phẩm bị bắt quản chế và hàng trăm ngôi chùa bị phong tỏa. Khi được hỏi vì sao một số phong trào tôn giáo bị cấm đoán tại Việt Nam, Sư cô Chân Không trả lời : “Vì một số các Giáo hội này tàng trữ những lá cờ của chế độ cũ (sic). Còn chúng tôi, thì chúng tôi chẳng có một tham vọng chính trị nào cả”.

Tại Hà Nội, theo báo Nhân Dân phát hành ngày 13.1.2005, Sư Ông Nhất Hạnh tuyên bố rằng : “Ông đã từng đấu tranh với những thái độ căng thẳng của chính quyền một số nước phương Tây về “vấn đề tôn giáo ở Việt Nam”. Ông kể, ông đã từng nói với một số quan chức Hoa Kỳ rằng : “Người Việt Nam muốn được giải phóng khỏi cái mà người Mỹ gọi là sự giải phóng cho người Việt Nam”.

Thế mà nay Hà Nội qua bàn tay của Ban tôn giáo chính phủ đánh thẳng vào pháo đài Làng Mai tại tu viện Bát Nhã ở tỉnh Lâm Đồng ! Ẩn khuất gì đây ?

Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng Thư ký Viện Hóa Đạo, GHPGVNTN, vừa gửi đến Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế để phổ biến bài bình luận về các biến cố xẩy ra tại Tu viện Bát Nhã. Xin độc giả theo dõi toàn văn bài bình luận dưới đây :

Vấn đề Nhà cầm quyền cộng sản đàn áp,
trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã
Thích Viên Định

Tin Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đòi trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã, Lâm Đồng sau Đại lễ Vesak 2008 làm cho mọi người, ai cũng hồi hộp, lo lắng, đau xót, cảm thương. Và đúng như vậy, sự thật đau buồn đã xảy ra, tất cả gần 400 Tăng, Ni bị Nhà cầm quyền ra lệnh trục xuất ra khỏi chùa Bát Nhã, Lâm Đồng, hạn chót là ngày 2.9.2009. Bước đầu cuộc đàn áp là điện, nước bị cúp, phòng xá bị phá, tạo áp lực nặng nề, làm cho mọi sinh hoạt của chư Tăng, Ni trở nên vô cùng khó khăn.

Chuyện Thiền sư Nhất Hạnh, năm 2005, về Việt Nam hợp tác với Nhà cầm quyền cộng sản, gây hậu quả như thế nào là một vấn đề khác, nhưng việc 400 chư Tăng, Ni trẻ, mới cạo tóc xuất gia, tâm hồn trong trắng, quyết chí tu hành lại bị Nhà cầm quyền dùng bạo lực đàn áp, trục xuất, không cho tu học thì không một người nào là không đau lòng, tức giận.

Dân tộc Việt Nam suốt 60 năm qua chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ vì nạn Cộng sản vô thần. Riêng về Phật Giáo, từ ngày 02. 11.1975 đã bị đàn áp quá sức chịu đựng, 12 Tăng, Ni Thiền Viện Dược Sư ở Cần Thơ đã phải tự thiêu để phản đối. Năm 1978, Hoà thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong tù. Đại Lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hoà thượng Thích Quảng Độ và rất nhiều Tăng, Ni và Phật tử đã bị tù tội, quản thúc, lưu đày…tượng Phật bị đập phá khắp nơi, cơ sở Giáo Hội bi trưng thu nhiều vô kể. Là nạn nhân bị đàn áp nặng nề nhất, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất rất đau đớn, cảm thông trước sự kiện Nhà cầm quyền cộng sản đàn áp, trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã, Lâm Đồng, hiện nay và cho đây là một bằng chứng nữa của quốc nạn độc tài, vô thần.

Cùng lúc với chùa Bát Nhã ở Lâm Đồng, nhiều cơ sở của các tôn giáo khác cũng bị đàn áp làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Vì những việc này, các thành viên trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng được dư luận chiếu cố nhiều. Thư hỏi cũng có, điện thoại phỏng vấn cũng có, đến gặp trực tiếp cũng có, tất cả đều có chung thắc mắc rằng tại sao Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất không lên tiếng can thiệp ? Có người còn trách rằng, cứ ai lo phần nấy, các tôn giáo không đoàn kết, nên cộng sản dễ đàn áp là phải !

Những thắc mắc, trách cứ này cũng đúng. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt cần phải lắng nghe, tìm hiểu, chờ đợi tiếng nói chính thức từ tổ chức, giáo phái bị đàn áp. Ngay cả các nhà lãnh đạo các giáo phái bị bức hại, đôi khi cũng quá dè dặt, không chịu lên tiếng phản kháng. Không văn thư, không lên tiếng phản kháng, thì căn cứ vào đâu để mọi người chung quanh biết đường hỗ trợ ?

Lại nữa, vị thế của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) rất đặc biệt nhạy cảm, dễ bị Nhà cầm quyền cộng sản nghi ngờ, kết tội, không phải ai cũng dám liên hệ. Ngay cả Thiền sư Nhất Hạnh, người đã có quốc tịch nước ngoài, khi về nước, năm 2005, cũng không bao giờ dùng danh xưng GHPGVNTN cùng chức vụ chính thức khi ngài cần tiếp xúc với Đức Tăng Thống, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang và Hoà thượng Viện trưởng Viện Hoá Đạo, Thích Quảng Độ, ngài chỉ xưng hô đơn thuần là Hoà thượng Thích Huyền Quang, Hoà thượng Thích Quảng Độ, như tên những người bình thường, không chức vị gì trong Giáo Hội, trong khi đối với các vị ở Giáo Hội khác thì Ngài cẩn thận ghi đầy đủ chức vị rõ ràng. (xin xem, “Trả lời thư Thiền sư Nhất Hạnh” của Thượng tọa Thích Viên Định, Thông cáo báo chí của Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phát hành ngày 22.1.2005, tại Trang nhà Quê Mẹ, Paris : http://www.queme.net).

Về vấn đề Dân oan đòi nhà, đòi đất, nói chung, của toàn dân, không phân biệt tổ chức, tôn giáo, đảng phái nào, GHPGVNTN đều đã lên tiếng, ủng hộ từ lâu.

Chuyện Bát Nhã, Lâm Đồng như trên đã nói, là vấn đề xảy ra có vẻ rắc rối, tế nhị. Vừa có vẻ là chuyện nội bộ của chư Tăng tu theo pháp môn Làng Mai với Thượng toạ Đức Nghi, Trú trì chùa Bát Nhã, vừa có vẻ là chuyện xích mích nội bộ trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với Thiền sư Nhất Hạnh, lại cũng có vẻ là chuyện xính mích nội bộ của Nhà cầm quyền cộng sản về Thiền sư Nhất Hạnh. Thiền sư Nhất Hạnh là khách của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, về hợp tác với Giáo Hội và Nhà cầm quyền Cộng sản. Trong vụ này, chưa hề thấy thiền sư Nhất Hạnh trực tiếp lên tiếng như thế nào. Sự việc chưa rõ ràng nên không biết căn cứ vào đâu để hỗ trợ. Nhưng, việc Nhà cầm quyền cộng sản trấn áp chư Tăng Chùa Bát Nhã bằng cách cúp điện, cúp nước, ném đá, ném phân, ngăn chặn đường, không cho người vào tiếp tế lương thực, là một hành động đàn áp tôn giáo quá rõ ràng. Việc đàn áp kéo dài, xảy ra ngay bên cạnh. Nạn nhân lại là đồng bào, đồng đạo, ai thấy mà không tức giận, đau lòng.

Không phải quí Hoà thượng trong GHPGVNTN không lên tiếng. Thực ra, quí ngài đã lên tiếng từ lâu rồi. Năm 1998, nghe tin Thiền sư Nhất Hạnh dự định về Việt Nam hợp tác với Nhà cầm quyền cộng sản, Hoà thượng Thích Quảng Độ đã viết thư đề nghị Thiền sư Nhất Hạnh, bằng những lời nhẹ nhàng, tế nhị, đại ý : “Việt Nam chưa có tự do, dân chủ, nhân quyền, đừng về hợp tác, buôn bán, làm ăn, coi chừng sập tiệm, sẽ mất cả chì lẫn chài !”

Bất chấp lời khuyên của Hoà thượng Thích Quảng độ, năm 2005, Thiền sư Nhất Hạnh về Việt Nam, kéo theo đoàn tuỳ tùng đông đảo lên đến 100 người. Chuyện đã lỡ, nhưng còn nước còn tát, Thượng toạ Thích Viên Định cố gắng viết một tâm thư, “Trả lời thư Thiền sư Nhất Hạnh”, phân tích lợi hại chuyến về Việt Nam không được khế thời, và tường trình cặn kẻ cho Thiền sư Nhất Hạnh biết, nhân dân Việt Nam đang bị khốn khổ vì nạn độc tài, độc đảng, nhân quyền, tôn giáo bị đàn áp rất nặng nề. Hy vọng qua thư đó, thấy rõ sự đau khổ của đồng bào Việt Nam, bị kiềm kẹp trong ách độc tài, Thiền sư sẽ đi theo con đường của GHPGVNTN, hợp cùng với các thân hào nhân sĩ và 85 triệu đồng bào, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho Việt Nam.

Trong tâm thư “Trả lời Thiền sư Nhất Hạnh” có đoạn nói rõ rằng : “… Ngài đã ở nước ngoài lâu rồi, coi như khách, lại về Việt nam chỉ có ba tháng, nên cách đối xử cũng khác, chánh phủ tiếp Ngài như tiếp phái đoàn quốc tế tham quan vậy thôi. Nếu Ngài về ở ba năm thì vấn đề lại khác, chưa chắc được như vậy”. Thật vậy, năm 2005, phái đoàn Thiền sư Nhất Hạnh từ Pháp về, được tiếp đón trọng thể như thượng khách. Nhưng 3 năm sau, cuối năm 2008, Nhà cầm quyền cộng sản bắt đầu trở quẻ, và nay, 2009, chính thức hạ lệnh trục xuất tăng thân của Thiền sư.

Cho đến nay, chưa thấy Thiền sư Nhất Hạnh có phản ứng chính thức với Nhà cầm quyền, mặc dù những năm gần đây, Ngài đã có sự liên hệ thân mật với Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam. Có lẽ, vì vướng víu chuyện gì đó, nên Ngài còn tránh né, không tiện lên tiếng với Nhà cầm quyền cộng sản chăng ?Gần đây, tháng 8.2009, trong bài tường trình của một Tăng sinh ở chùa Bát Nhã, có lồng vào bức thư riêng của Thiền sư Nhất Hạnh gửi Thượng toạ Đức Nghi, nội dung có tính cách thầy trò, Ngài chỉ nói chuyện phải trái, chuyện nội bộ với Thượng toạ Đức Nghi, tuyệt không có lời nào đề cập đến việc đàn áp, trục xuất của Nhà cầm quyền cộng sản đối với Tăng, Ni chùa Bát Nhã.

Thiền sư Nhất Hạnh quên rằng, thầy Đức Nghi mặc dù là đệ tử cầu pháp của Ngài, nhưng cũng là thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam với chức vụ Phó Ban Trị sự Giáo Hội tỉnh Lâm Đồng, mà Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam là thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, tổ chức ngoại vi của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy, Thượng toạ Đúc Nghi vừa là đệ tử của Thiền sư Nhất Hạnh, vừa là cán bộ ngoại vi của Đảng cộng sản, chịu ân huệ của cả hai bên, bên trung bên hiếu, không biết phải chọn bên nào. Tội nghiệp cho Thầy Đức Nghi, mặc dù là trú trì, nhưng hoàn cảnh trên đe dưới búa, không thể tự chủ thì giải quyết được việc gì. Thiền sư Nhất Hạnh không trực tiếp nói chuyện với Nhà cầm quyền cộng sản, lại đi nói chuyện phải quấy với Thượng toạ Đức Nghi. Lâm vào thế khó xử, nhiều lúc Thầy Đức Nghi phải tìm cách lánh mặt khỏi chùa Bát Nhã.

Vì, rõ ràng, qua những văn kiện của Ban Trị Sự tỉnh Lâm Đồng, của Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, nhất là những Văn thư của Bộ Nội Vụ, Ban tôn giáo về vụ chùa Bát Nhã, xem ra vấn đề còn nhiều nguyên nhân sâu xa, không phải là chuyện nội bộ của chư Tăng chùa Bát Nhã, nên Thượng toạ Đức Nghi không thể nào giải quyết được.

Việc các nhóm du đảng, xã hội đen, dùng bạo lực ném đá, ném phân lên người, lên xe của chư Tôn đức trong Ban Trị sự Giáo Hội tỉnh Lâm Đồng thuộc nhà nước, khi đến thăm chùa Bát Nhã, trước sự chứng kiến của công an, có vị bị thương rất nặng, phải vào nằm bệnh viện, nhưng lạ một điều, mặc dù rất đau đớn, tức giận, không thấy vị Hoà thượng, Thượng toạ nào lên tiếng phản đối hành động man dã, có sự bao che của Nhà cầm quyền.

Có lẽ chư Tăng thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt nam quen chịu nhẫn nhục, hoặc vì một lý do nào khác, không thể nói được ? Câu Cảnh Sách : “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu(1) bỏ đâu mất rồi ? Con em, đồng đạo trong vòng tay của mình mà mình còn không dám cứu thì hy vọng gì việc cứu giúp cho ai ?

Vậy là, từ Thiền sư Nhất Hạnh đến các đệ tử của Ngài, các Hoà thượng bị đánh trọng thương, bị ném phân đầy mình, trong Ban Trị Sự Giáo Hội tỉnh Lâm Đồng đều im lặng, không ai lên tiếng phản kháng Nhà cầm quyền cộng sản trong vụ đàn áp, trục xuất chư Tăng chùa Bát Nhã, Lâm Đồng. Tất cả đều im lặng, một sự im lặng khó hiểu.

Sự im lặng đó có thể là kết quả của việc thu phục để sử dụng của cộng sản theo phương châm của Lê-nin : “Đảng phải thông qua tôn giáo để khống chế quần chúng”, nghĩa là, cho các Tôn giáo tổ chức tu học, nhưng không được chống đối, phải biết im lặng, phục tùng, tuyên truyền cho chế độ.

Có lẽ, chuyện hục hặc xảy ra ở chùa Bát Nhã, Lâm Đồng chỉ là một tai nạn bất ngờ, tai bay vạ gió, không ai mong muốn, trong sự hợp tác giữa Nhà cầm quyền cộng sản với Thiền sư Nhất Hạnh. Nhà cầm quyền cộng sản muốn thu phục chư Tăng chùa Bát Nhã, Lâm Đồng để sử dụng, giống như tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc.

Tình trạng Tăng, Ni chùa Bát Nhã hiện nay như rắn mất đầu, rất dễ thu phục. Vậy là Nhà cầm quyền cộng sản đã đạt được mục đích rồi, và có thể đã làm hài lòng thượng cấp. Đó cũng là câu trả lời cho Thiền sư Nhất Hạnh và những ai mơ mộng hợp tác với Nhà cầm quyền độc tài, vô thần, cộng sản để làm văn hoá, làm giáo dục, làm từ thiện, thấy được cái kết cuộc sẽ như thế nào. Chặt rễ, chặt gốc, từ từ cây sẽ chết, chết đứng, không cần xô ngã, khỏi mang tiếng. Nếu không khéo che mắt thiên hạ như thế, thì tại sao ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam, Michael Machalak, lại ca ngợi nhà nước Cộng sản Việt Nam “đã có tiến bộ về quyền tự do tôn giáo”, trong khi, sự thật các tôn giáo vẫn cứ bị đàn áp triền miên ?

Vừa qua, thấy bài trả lời phỏng vấn của sư cô Chân Không trên một tờ báo nước ngoài, cô nói về những cái kẹt của thiền sư : “…Cái kẹt thứ hai là của mấy người ở Trung ương bị Trung Quốc ức hiếp. Sư Ông Nhất Hạnh từng phát biểu trên một đài truyền hình Ý về vấn đề Tây Tạng. Nhóm thủ cựu Việt Nam sợ Trung Quốc, lời phát biểu của Sư ông làm cho Trung Quốc giận…” Qua đó, lộ ra một phần những nguyên nhân sâu xa làm xảy ra việc đàn áp, trục xuất chư Tăng, Ni tu theo pháp môn Làng Mai của Thiền sư Nhất Hạnh, ở chùa Bát Nhã, Lâm Đồng. Đó là một chi tiết không mới lạ, nếu có dịp sẽ tìm hiểu thêm.

Thích Viên Định

(1) Câu này trích từ bài văn Cảnh sách của Ngài Quy Sơn (Quy Sơn cảnh sách văn) tức một trong năm phần phù trì luật Sa di (gồm có Kinh Di giáo, Bát đại nhân giác, các văn Khuyến phát bồ đề tâm, Cảnh sách văn, và Tỳ ni nhật dụng thiết yếu), có nghĩa : “Người xuất gia là cất bước thì muốn vượt tới phương trời cao rộng, tâm tính và hình dung khác hẳn thế tục, tiếp nối rạng rỡ giòng giống của Phật, làm cho quân đội của ma cũng phải rúng động khuất phục, với mục đích báo đáp bốn ân, cứu vớt ba cõi”<8em> PTTPGQT chú.

Thứ Hai, 21 tháng 9, 2009

Thư Mời Tham Dự Lễ Bế Mạc, Hiệp Kỵ Họp Báo

Xin Vui lòng nhấn vào hình để làm lớn lên cho dể đọc


Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

ĐIÊN ĐẢO

Thượng tọa Thích Viên Định, Phó Viện trưởng kiêm Tổng thư ký Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vừa gửi đến Phòng Thônbg tin Phật giáo Quốc tế bài viết “Điên đảo” mà trọng tâm nhằm phân tích sự kiện Nhà cầm quyền Hà Nội bắt bớ, khủng bố những người YÊU NƯỚC mà Hà Nội kết án tội “cấu kết với các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”. Thế nhưng, Nhà cầm quyền Hà Nội chẳng bao giờ tự vấn lương tâm để tìm ra thủ phạm : Ai là “Thế lực thù địch” của dân tộc đang “âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam ?

Xin mời quý độc giả đọc bài phân tích ấy sau đây :


ĐIÊN ĐẢO


Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thường gán tội “cấu kết với các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền” lên các thành viên Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, các Giáo Hội độc lập của các tôn giáo, các thân hào, nhân sĩ, các nhà trí thức, các văn nghệ sĩ, các sinh viên, học sinh biểu tình, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải cho Tổ quốc Việt Nam.

Không một quốc gia văn minh, dân chủ nào trên thế giới có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”, không luật pháp nước nào có tội danh đó.

- Tại sao Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản luôn có các “Thế lực thù địch” ?

Năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dùng vũ lực cưỡng chiếm miền Nam rồi duy trì sự cai trị độc tài, độc đảng suốt từ đó đến nay bằng súng đạn, quân đội, nhà tù, công an, khủng bố, bưng bít, lừa dối, tuyên truyền. Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam là một trong số rất ít những nhà cầm quyền còn sót lại trên thế giới đã cướp chính quyền bằng bạo lực. Trong khi đó, toàn dân lại luôn mong muốn có một chính quyền được bầu cử hợp pháp bằng lá phiếu của người dân một cách tự do, dân chủ, công bằng, một chính quyền thật sự của dân, do dân, và vì dân. Không do dân bầu, bất hợp pháp, nên Nhà cầm quyền độc tài cộng sản Việt Nam luôn ở trong tình trạng bất an, lúc nào cũng cảm thấy có “các thế lực thù địch âm mưu lật đổ chính quyền”.

Trong một chế độ dân chủ, đa nguyên, đa đảng, câc đảng phái, mặc dù đối lập nhau, nhưng không thù địch, trái lại, hỗ tương, bổ khuyết nhau, rất cần cho sự cạnh tranh để phát triển đất nước. Trái lại, dưới chế độ độc tài, độc đảng, thì bất cứ tổ chức, cá nhân nào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, đều bị xem là vi phạm luật pháp, là thù địch.

Mặc dù bị nhà cầm quyền độc tài bỏ tù, quản thúc, gán tội vi phạm luật này, luật nọ, những điều luật mơ hồ, phản tự do, phi dân chủ, chống nhân quyền, trái với Công ước quốc tế… những người bị hãm hại này lại chính là những người mà Đức Cố Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Đại Lão Hoà thượng Thích Huyền Quang gọi là những người “tù không tội”. Bởi vì vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp công với đất nước, sao gọi là tội ?

- Các “ thế lực thù địch” của Nhà cầm quyền cộng sản là ai ?

“Thế lực thù địch” dễ biết nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở nước ngoài, tiếp đến là các đảng phái chính trị không cộng sản trong và ngoài nước, và cuối cùng là 85 triệu người dân Việt trong nước ngày đêm mong muốn được sống trong không khí Tự do, Dân chủ, Nhân quyền như các dân tộc văn minh khác trên thế giới. Ngoài ra, cũng phải kể đến một số tổ chức, hội đoàn và chính quyền các nước văn minh chống độc tài, độc đảng, yểm trợ các phong trào vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng, phát triển tại Việt Nam.

- Có “âm mưu lật đổ chính quyền” hay không ?

Tất cả các đảng Cộng sản trên thế giới đều dùng bạo lực để cướp chính quyền. Trái lại, các đảng phái chính trị, không cộng sản, của người Việt trong và ngoài nước, các cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên, học sinh và 85 triệu người dân trong nước, hiện nay, không có thành phần nào chủ trương dùng bạo lực để lật đổ chính quyền.

Theo trào lưu dân chủ trên thế giới, người dân Việt Nam, ai cũng mong muốn có một cuộc bầu cử trong tự do, dân chủ, công bằng để bầu ra một chính quyền đích thực “của dân, do dân, và vì dân”. Đảng phái nào được dân ủng hộ, đắc cử, thì đứng ra lập chính quyền. Trong thế giới dân chủ, văn minh ngày nay không chấp nhận việc dùng bạo lực để cướp chính quyền. Cũng không chấp nhận việc dùng súng đạn, công an, nhà tù…để duy trì quyền lực.

Nhà cầm quyền độc tài Cộng sản Việt Nam, theo chủ thuyết Mác-Lê, vừa sai lầm, vừa lạc hậu đã cản trở bước tiến của dân tộc. Vì đặc quyền đặc lợi, muốn tiếp tục nắm giữ quyền hành, nhưng Nhà cầm quyền cộng sản lại không dám tranh cử công bằng với các đảng phái, cá nhân thuộc thành phần đối lập, nên cố tình gán cho các thành phần khác là “các thế lực thù địch” để dễ tuyên truyền, đàn áp, tiêu diệt. Việc ghép tội “âm mưu lật đổ chính quyền” lên các cá nhân, đảng phái đối lập là hoàn toàn vu cáo.

Tình trạng độc tài đảng trị lâu ngày sinh ra các tệ nạn tham nhũng, hối lộ, cắt xén, mua bằng, bán chức…làm băng hoại xã hội, cản trở bước tiến của dân tộc. Lo lắng trước hiểm hoạ độc tài này, trong Thư Chúc Xuân gửi các bậc sĩ phu, trí thức, văn nghệ sĩ năm Ất Dậu, 2005, Đại Lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã nói rằng, “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và trong cương vị Tăng sĩ, chúng tôi không làm chính trị, không tham gia chính trị. Nhưng chúng tôi phải có thái độ chính trị”. Hoà thượng đã đề nghị giải pháp đa nguyên đa đảng, bước đầu có thể là 3 đảng, “Chỉ cần một đảng tả khuynh, một đảng hữu khuynh, một đảng trung hòa đại diện cho các dòng suy nghĩ chính lưu”. Nhưng Nhà cầm quyền cộng sản cứ khăng khăng cố giữ thể chế độc tài độc đảng, cho rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”. Điều 4 trong Hiến Pháp hiện nay, dành cho Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước, giống như thời phong kiến, Thiên tử, con trời, được độc quyền cai trị đất nước, không ai được tranh giành.

Nghị quyết 1481, ngày 25.1.2006, Quốc Hội Âu châu đã lên án các Đảng cộng sản trên thế giới là phi nhân tính, là thảm hoạ dân tộc, là tội ác chống nhân loại. Hoa kỳ đã lập Đài tưởng niệm trên 100 triệu nạn nhân đã bị các chế độ cộng sản sát hại trên thế giới. Vậy mà Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam vẫn còn tiếp tục làm những việc trái luật pháp, phản dân chủ, bắt người, giam giữ mà không cho liên lạc với thế giới bên ngoài, không cho luật sư biện hộ, dùng những lời khai, đưa lên báo, đài để bôi nhọ, lăng nhục, trong khi Hiến Pháp, điều 72, xác nhận rằng : “ Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”.

Không sao cả, có thể, nay một vài luật sư, mai vài ba bác sĩ, ngày mốt là các tu sĩ, bữa kia là công nhân, rồi tiếp đến là nông dân, thương gia, sinh viên, học sinh…các giới cùng bị đưa lên báo, đài, với cùng tội danh, “chống nhà cầm quyền độc tài, vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý”. Càng có nhiều người chống độc tài, nền dân chủ sẽ đến với dân tộc ngày càng gần hơn.

Mỗi người, tuỳ sức khoẻ cá nhân, tuỳ hoàn cảnh gia đình, vợ dại, con thơ, cha già, mẹ yếu, có cách đối phó riêng trong cuộc chiến giành tự do rất gian khó này. Cần phải sống để giành cho được Tự do, Độc lập cho dân tộc. Cái tội, “chống độc tài, yêu tự do”, ai lại không muốn lãnh ? Nếu những người vận động cho tự do, dân chủ, nhất thời có bị đàn áp, chỉ đưa tới sự thắng thế của bạo lực, không có gì phải tủi hỗ. Cuối cùng, Tự do, Dân chủ sẽ thắng !

Tuy chăm chú việc lên án các đảng phái chính trị và những người khác chính kiến là “thù địch”, nhưng hiện nay Nhà cầm quyền cộng sản, luôn tránh né, không bao giờ đề cập, lên án tội “ Cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam”, cái tội liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của tổ quốc và dân tộc mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo, các đảng phái, các tổ chức, các sĩ phu, trí thức, sinh viên, học sinh và 85 triệu người dân đang rất quan tâm, hồi hộp, lo lắng từng ngày. Nếu gọi là thù địch thì giặc ngoại xâm mới thật sự là thù địch. Không nên điên đảo, nhìn kẻ cướp nước là bạn, xem đồng bào ruột thịt là thù.

Cái “ Thế lực thù địch lâu đời” này mới đáng lo, nó không âm mưu lật đổ chính quyền, mà nguy hại hơn, “âm mưu xâm chiếm Tổ quốc Việt Nam !” . Việc thay đổi chính quyền chỉ là chuyện nhỏ, chuyện nội bộ. Tổ quốc là của chung, không phải riêng ai. Các đảng phái thay nhau lập chính phủ chỉ là sự cạnh tranh, cần có, tránh sự trì trệ, để phát triển đất nước. Không thể một mình một chợ, một đội bóng một sân banh, mặc tình, tham nhũng, hối lộ, cắt xén, làm đất nước suy yếu, nghèo đói, tụt hậu. Nay, đảng này lên, mai, đảng kia xuống, chỉ là những chuyện thường ngày trong các bản tin thời sự quốc tế, không có gì là quan trọng, ầm ĩ hay thù địch. Tổ quốc bị xâm lăng mới là chuyện lớn, mới là chuyện thù địch.

- “Thế lực thù địch” của Dân tộc đang “âm mưu xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam” là ai ?

Hỏi tức là trả lời. Toàn dân, già, trẻ, lớn, bé, ai cũng biết, cái “thế lực thù địch” với Tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay chính là Bắc phương ! Việt Nam đang bị Hán hoá ! Hoạ mất nước đã bắt đầu :

- Năm 1958, Nhà cầm quyền Trung cộng tuyên bố lãnh hải của Trung quốc bao gồm các hải đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam. Năm 1974, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng sa. Năm 1979, Trung cộng đánh chiếm 6 tỉnh miền Bắc, khi rút về, dời cọc biên giới, lấy mất Ải Nam quan, Thác Bản Giốc. Năm 1988, Trung cộng đánh chiếm quần đảo Trường sa. Năm 2005, 2006, ngư dân Thanh Hóa ra đánh cá trong vùng lãnh hải Việt Nam quen thuộc, nhiều lần bị lính Trung cộng bắn chết, bắt người bị thương, cướp ghe thuyền kéo về giam cầm tại đảo Hải Nam Trung quốc. Năm 2007, Trung cộng tuyên bố thiết lập Huyện Tam sa bao gồm các quần đảo Hoàng sa, Trường sa của Việt Nam. Năm 2008, Trung cộng và nhà cầm quyền Hà nội hoàn thành việc cấm mốc biên giới phía Bắc lùi sâu vào địa phận lãnh thổ Việt Nam. Năm 2009, Trung cộng được nhà cầm quyền Hà nội mời vào khai thác quặng Bô-xit ở Tây nguyên, gây nguy cơ an ninh quốc phòng nơi vùng chiến lược yết hầu của Việt nam và Đông dương do sự uy hiếp của hàng chục nghìn công nhân Trung quốc. Ngoài ra còn tàn phá môi trường, thải ra hàng núi Bùn đỏ độc hại làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, lâu dài trong lòng đất, sông ngòi và khí hậu cho cả khu vực Nam Trung bộ và Miền nam Việt Nam. Nguy hại nhất là vị trí chiến lược quốc phòng bị chiếm đóng. Năm 2009, Trung cộng cấm đánh cá 3 tháng trên Biển Đông, bắt tàu thuyền, ngư dân Việt Nam, đòi tiền chuộc…

Suốt 4 ngàn năm lịch sử, ông cha ta không làm mất một tấc đất, ngày nay, mới vài chục năm, tổ quốc đã bị xâm lấn từ biên giới phía Bắc đến hải đảo phía Đông, cả Tây nguyên cũng sắp mất.

Đã xác định được “thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc” là “Trung cộng” thì cũng xác định được :

- Ai là kẻ “cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng Tổ quốc” ?

Nhân dân Việt Nam, với truyền thống anh hùng, mấy nghìn năm chống “thế lực thù địch phương Bắc”, tại sao ngày nay lại để quê hương tổ quốc, từng phần, rơi dần vào tay kẻ thù truyền kiếp một cách âm thầm như vậy ?

Phải có sự cấu kết trong nước nên các cuộc biểu tình, lên tiếng chống Trung cộng của sinh viên, học sinh và đồng bào ta mới rụt rè, yếu ớt, mau tàn rụi vì bị hăm doạ, cản trở từ phía Nhà cầm quyền vào đến cảc trường đại học bởi lý do : “không được phép”.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới vừa là kẻ xâm lăng vừa lại được ưu tiên trong việc đấu thầu các công trình khai thác ở Việt Nam.

Phải có sự cấu kết trong nước, Trung cộng mới dễ dàng xâm chiếm các hải đảo, lãnh hải, biên giới, đưa dân tràn vào Việt nam một cách tự do, ào ạt, không cần chiếu khán. Đây là một cuộc xâm lăng kiểu mới, rất tinh vi, quân dân Trung cộng đang đổ bộ vào chiếm đóng nước ta một cách nhẹ nhàng, êm thắm, không tốn một viên đạn, không mất một giọt máu.

Quân đội và đồng bào ta đã anh dũng hy sinh để bảo vệ tổ quốc trong các trận chiến đảo Hoàng sa năm 1974, đảo Trường sa năm 1988, nhất là cuộc chiến rất ác liệt ở biên giới phái Bắc năm 1979, gần 40 nghìn quân đân Việt Nam đã bỏ mình vì tổ quốc, vậy mà hàng năm không thấy tổ chức kỷ niệm, nêu gương hy sinh bảo vệ tổ quốc cho con cháu noi theo. Trái lại, cứ mỗi lần Tết đến, Nhà cầm quyền lại tổ chức viếng lễ các nghĩa trang quân xâm lăng Trung cộng, đặt vòng hoa : “đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung quốc”.

Công Hàm ngày 14.9.1958, do Thủ tướng Bắc Việt, Phạm văn Đồng, ký công nhận tuyên bố của Trung cộng, lãnh hải Trung quốc bao gồm đảo Hoàng sa và Trường sa của Việt Nam, có phải là bằng chứng cấu kết với thế lực thù địch âm mưu xâm lăng tổ quốc ?

Phương châm 16 chữ vàng : “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt : “láng giềng tốt, hợp tác tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” có phải là bằng chứng của sự cấu kết ?

Đảng cộng sản Việt Nam theo chủ thuyết Mác-Lê với lý tưởng : “vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo”. Nếu hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc đã : “ hợp tác toàn diện” theo lý tưởng “vô tổ quốc” trong tinh thần : “đồng chí tốt” thì còn gì là Dân tộc !, còn gì là non sông !

Hoạ mất nước đã đến, tái hiện cảnh : Ngàn năm làm nô lệ Bắc phương !

Tổ quốc lâm nguy !!!

Thích Viên Định

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2009

Chùa Điều Ngự và lễ Vu Lan (Phật Lịch 2553)


Chùa Điều Ngự và lễ Vu Lan (Phật Lịch 2553) với toàn hoa hồng vàng cho tất cả mọi người,
Chủ Nhật 6 tháng 9, 2009.
Ngày 09-09-2009, giờ 16:26
Trân trọng kính chuyển đến Quí Vị, và Quí Đạo hữu Bản tin phóng sự Đại Lễ VU LAN tổ chức tại Chùa Điều Ngự vào lúc 11 giờ ngày Chủ Nhật 06 tháng 9 /2009 vừa qua của Phóng Viên Đỗ Dũng Nhật báo VIETHERALD số 66 phát hành ngày thứ hai 07/9/200. Thay mặt ban Tổ Chúc chúng tôi xin Cám ơn Phóng viên Đỗ Dũng và Ban Chủ nhiệm Nhật Báo VietHerald đã cử Phóng Viên đến tham dự và làm phóng sự nhanh chóng, đồng thời cho phép chúng tôi phổ biến rộng rãi bài phóng sự này. Nhân Nhân đây chúng tôi xin bổ túc thêm, trước đó Chùa đã cử hành trang trọng lễ Trai Đàn chẩn tế từ 4 giờ chiều đến 8 giờ tối với hơn 300 tín chủ ghi danh cho thân thuộc tham dự trai đàn giải oan bạt độ tham dự.- Và trong ngày lễ Vu Lan theo Tiểu ban Hoa Hiếu Hạnh và Tiểu ban Chúc Thọ cho biết thì số lượng 2000 Hoa hồng Vàng và card Mùa Vu Lan Hiếu hạnh đã gắn hết trong ngày Đại lễ ngoài trừ 120 chiếc Ban Xã Hội kết hợp cùng Đoàn Phật Tử An Lạc Phụng sự, Đại diện Đoàn Cựu Huynh Trưởng miền Vạn Hạnh, Đại diện Liên Khuôn Phật Học, Đại diện Gia đình Phật Tử Điều Ngự và Đại diện các Khuôn Hội Westminster, Garden Grove, Huntington Beach đã đến thăm viếng Quí Cụ Cao niên đang ở trong nhà dưỡng lão HELPING HANDS WESTMINSTER nhân dịp Lễ Vu Lan vừa qua. Tiểu Ban Chúc Thọ cũng cho biết 170 Quí Cụ Cao Niên có tuổi thọ từ 75 đến 90 tuổi đã vui vẻ tham dự Lễ Chúc Thọ, 170 phần quà (trên tổng số 200) rất có ý nghĩa về mặt tinh thần và 170 vòng hoa Hiếu Hạnh đã được hàng con cháu Chùa Điều Ngự dâng lên Quí Cụ trong niềm hân hoan tôn kính và đầy tình đạo vị giữa những người Con Phật qua nhiều thế hệ trong ngày Hiếu Hạnh dưới mái Chùa chung. Một lần nữa xin cám ơn Quí Cụ và nhất là Quí Cụ đã được con cháu diù đi Lễ Phật và tham dự Lễ Chúc Thọ vui chung, Kính chúc Quí Cụ an khang trường thọ, bồ đề tâm kiên cố và sở cầu như nguyện.Kính Chúc Quí Vị, và Quí Đạo hữu thường an lạc, vạn sự như ý.HVP/chơn diệuTruyền Thông & Ngoại VụChùa Điều Ngự.

Chùa Điều Ngự và lễ Vu Lan với toàn hoa hồng vàng cho tất cả mọi người

Bài và hình: Đỗ Dzũng/Việt Herald

LITTLE SAIGON, California (VH):

Khác với nhiều chùa trong vùng, và khác với truyền thống bấy lâu nay, chùa Điều Ngự đã tổ chức Đại Lễ Vu Lan, Phật Lịch 2553, hoàn toàn mới, sử dụng toàn là hoa hồng vàng để tất cả cùng hưởng hiếu hạnh, với hơn 1,500 người tham dự hôm Chủ Nhật 6 tháng 9, 2009.

Phật Tử Chơn Diệu Hoàng Văn Phong, một thành viên ban tổ chức Đại Lễ Vu Lan tại chùa Điều Ngự, giải thích với phóng viên Việt Herald tại sao dùng hoa hồng vàng: Hiếu hạnh không của riêng ai, mà là của tất cả mọi người. Vì vậy, chúng tôi gắn cho mỗi người đến tham dự một hoa hồng vàng để tất cả cùng hưởng hiếu hạnh.
Theo truyền thống bấy lâu nay, khi đến tham dự Đại Lễ Vu Lan, Phật Tử nào còn mẹ thường được gắn một bông hồng đỏ. Còn ai mất mẹ thì được gắn bông hồng trắng. Chúng tôi không muốn phân biệt ai mất mẹ ai còn mẹ, Phật Tử Chơn Diệu nói tiếp.
Ngay trên cả trên bàn thờ chính và các bàn thờ khác trong chùa Điều Ngự hôm Chủ Nhật đều được trang trí bằng hoa hồng vàng.
Những bó hoa tặng quan khách, cho dù là hoa gì, cũng đều là màu vàng. Ngoài ra, những ai trên 75 tuổi đến tham dự lễ còn được ban tổ chức tặng một vòng hoa choàng lên cổ như là một hình thức chúc thọ. Cảnh tượng chùa Điều Ngự hôm Chủ Nhật thật nhộn nhịp. Trước cửa chùa là các thành viên Gia Đình Phật Tử Điều Ngự đứng chào đồng hương và gắn cho mỗi người một bông hồng vàng, được đính vào một tấm card có hàng chữ Vu Lan Mùa Hiếu Hạnh phía trước và hàng chữ Hoa Hiếu Hạnh, hoa hồng vàng tượng trưng chung cho sự biết ơn, hiếu hạnh, thương yêu cha mẹ (không phân biệt còn mất) và nhớ ơn Phật phía sau. Bên trong chùa, hàng trăm người xếp hàng vào chánh điện thắp nhang lạy Phật. Bên ngoài sân phía Nam của chùa, Phật Tử vái lạy nhiều bàn thờ khác nhau. Đây là những bàn thờ được sắp đặt để cử hành lễ Đàn Tràng Chẩn Tế Cô Hồn hôm trước. Tại sân phía Tây của chùa, một cái lều khổng lồ trong đó hàng ngàn Phật Tử ngồi hướng về một sân khấu có bàn thờ Phật. Xung quanh lều là những bích chương nói về ý nghĩa Vu Lan, lời giáo huấn của cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang cũng như các khẩu hiệu lên án sự đàn áp tôn giáo Đúng 11 giờ, Hòa Thượng Thích Viên Thành, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Nghi Lễ, mở đầu phần thuyết pháp và nói về ý nghĩa ngày lễ Vu Lan. Ông nói: Trách nhiệm của chúng ta là ai cũng phải hiểu ý nghĩa của lễ Vu Lan. Nói đến Vu Lan là nói đến báo hiếu, cứu khổ đau treo ngược. Những người sanh thành bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, chúng ta cầu cho họ an lạc, trả hiếu cho đấng sanh thành dưỡng dục, dù sống hay chết, không ai từ lỗ nẻ chui lên, từ trên trời rớt xuống. Tuy ông bà cha mẹ quá vãng nhưng trong da thịt luôn có họ, như một câu nói con cháu ở đâu, ông bà ở đó.
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Vu Lan trước là cầu siêu sau là tạ ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ. Sau các nghi thức chào cờ, phút nhập từ bi quán là phát biểu khai mạc Đại Lễ Vu Lan của Thượng Tọa Thích Viên Huy, trụ trì chùa Điều Ngự. Thượng Tọa cho biết đây là lần đầu tiên chùa tổ chức Vu Lan và kêu gọi mọi người nhớ đến sự hiếu hạnh của Đức Phật, đấu tranh cho công bằng xã hội và dấn thân phụng sự đạo pháp. Thượng Tọa trụ trì chùa Điều Ngự nói: Mỗi mùa Vu Lan về làm cho chúng ta nhớ đến một bậc hiếu hạnh vẹn toàn trên tất cả những người hiếu hạnh, một bậc vĩ nhân trên tất cả những vĩ nhân. Đó là Đức Phật, Vu Lan đã trở thành một nét văn hóa đặc thù của Phật Giáo nói riêng và cho nhân loại nói chung. Vu Lan là cứu khổ, là báo ân, đền đáp thâm ân bằng cách cứu khổ cho tất cả mọi loài, trong đó có cha mẹ, ông bà thân tộc chúng ta, mà Đức Phật dạy đã là bậc trượng phu thì dù một ơn nhỏ cũng chẳng quên huống gì ân trọng, ân quốc gia, ân đàn việt, ân cha mẹ và ân Tam Bảo, Thượng Tọa nói tiếp. Thượng Tọa Thích Viên Huy tiếp: Do vậy, chúng ta không thể tản lờ trước những bất công xã hội, trước thế lực đen tối đã ngăn chặn sự phát triển của GHPGVNTN, những âm mưu trù dập, cấm đoán hoạt động của các vị lãnh đạo Giáo Hội, những thế lực vô minh khiến cho đạo đức và văn hóa Việt Nam ngày một suy đồi trầm trọng, quốc gia dân tộc bị chìm trong bóng tối bạo tàn, làm nô lệ cho ngoại bang. Và Thượng Tọa kêu gọi: Hãy nỗ lực phụng sự đạo pháp và dân tộc bằng cách thể hiện tinh thần vô úy, kiên trì chịu đựng, không chùn bước trước gian nguy thử thách, nêu cao công lý, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp để chứng minh cho lịch sử và thế giới loài người thấy rằng cái chân, cái thiện luôn luôn là cái tồn tại vĩnh hằng với loài người tiến bộ, biết yêu chuộng công bằng và nhân phẩm. Kế đến ban tổ chức giới thiệu thành phần quan khách và dân cử hiện diện, bao gồm nhiều Chư Tăng Ni, nhân sĩ, Phó Thị Trưởng Westminster Tạ Đức Trí, Nghị Viên Westminster Tyler Diệp và Ủy Viên Chris Võ, cũng của Westminster . Nhân dịp này, Thượng Tọa Thích Viên Lý, Tổng Thư Ký Văn Phòng II GHPGVNTN, viện chủ chùa Điều Ngự, đã đọc Thông Bạch Vu Lan của Hội Đồng Lưỡng Viện do Thượng Tọa Thích Viên Định, Phó Viện Trưởng kiêm Tổng Thư Ký Viện Hóa Đạo, thay mặt Đại Lão Hòa Thượng Xử Lý Viện Tăng Thống, ấn ký và gởi cho tất cả Phật Tử trong và ngoài nước. Thông bạch có đoạn: Lẽ ra, trong thời gian này, chúng ta có nhiều thắng duyên để làm tròn chữ hiếu, hiếu với Tam Bảo, với quốc gia, với các bậc sanh thành dưỡng dục và với tất cả muôn loài chúng sinh. Thế nhưng, giữa bối cảnh của một quê hương bất công, lầm than và rách nát, quyền sống của con người bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp, đất nước đang bị đe dọa bởi nạn ngoại xâm, GHPGVNTN đang trong vòng kềm tỏa, bản thân tôi và Chư Tôn Giáo Phẩm Hội Đồng Lưỡng Viện trong nước vẫn liên tục bị trấn áp, Chư Tôn Giáo Phẩm và cư sĩ Phật Tử đang phục vụ Giáo Hội tại Hải Ngoại cũng bị tấn công, xuyên tạc, bôi nhọ, tất cả đều chìm ngập trong đêm dài của độc tài toàn trị. Vì thế, việc thể hiện trọn vẹn hiếu hạnh, nhất là hiếu hạnh với đất nước trong hoàn cảnh hiện nay đang là một trở ngại lớn lao. Tuy nhiên, trước thực trạng đầy thống khổ như thế, là người con Phật, với lý tưởng của Bồ Tát Đạo, chúng ta không thể không dấn thân hành hoạt để giải thoát tự thân và giải cứu nỗi khổ của đồng bào và hết thảy muôn loài, thông bạch tiếp.Sau phần phát biểu cảm tưởng của các vị dân cử, chương trình được tiếp tục qua phần điều hợp của 2 MC Minh Phượng và Ái Cầm với ba hồi chuông trống Bát Nhã, niệm hương bạch Phật, lễ Phật, nghi thức lễ Vu Lan, chúc thọ và dâng quà cho các phụ huynh, phóng sanh cầu quốc thái dân an, giới thiệu tác phẩm "Một đời vì Đạo vì Dân: Đức Cố Tăng Thống Thích Huyền Quang" . Sau đó thọ trai và văn nghệ.
Nguồn : nhan0912@yahoo.com